Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nếu KhôngTánh Không, Tất Cả Pháp Chẳng Thành

29 Tháng Chín 202317:20(Xem: 1336)
Nếu Không Có Tánh Không, Tất Cả Pháp Chẳng Thành

Nếu KhôngTánh Không,  Tất Cả Pháp Chẳng Thành

Nguyễn Thế Đăng

 
tanh khong


Trong Trung luận của Bồ tát Long Thọ luận giảng về tánh Không, phần nhiều là những câu phủ định. Có một câu khẳng định đến mức tuyệt đối khiến chúng ta có thể ngạc nhiên. Trong bài này chúng tasẽ tìm hiểu về câu nói ấy.

 

14.   Bởi vì có nghĩa Không,
Nên tất cả pháp được thành.
Nếu không có nghĩa Không
Tất cả pháp chẳng thành.
(Dĩ hữu Không nghĩa cố,

Nhất thiết pháp đắc thành.
Nhược vô Không nghĩa giả,
Nhất thiết tắc bất thành)

(Quán Tứ Đế, XXIV, câu 14).

1/ Tại sao không có tánh Không thì sẽ không có gì cả?

Các pháp, các sự vật, các hiện tượng được cấu thành là do nguyên lý duyên sanh, nghĩa là do nhiều nhân duyên hợp lại mà thành. Sự kết hợp này chỉ là tạm thời. Hơn nữa chính các nhân duyêncũng thay đổi, vô thường. Thế nên những thí dụ trong đạo Phật về sự vật là “giống như ba cây lau gác lên nhau”, “không có lõi cứng như cây chuối”, “như bọt nước, như sương, như tia chớp”…

Sự vật cho đến con người đều do duyên sanh, nghĩa là không có cốt lõi cứng chắc, không có thực chất, không có tự tánhvô tự tánhVô tự tánh là một nghĩa của tánh Không.

Một sự vật, tự riêng nó, đều do nhiều bộ phận hợp lại mà thành. Những bộ phận ấy phải nương dựa được lẫn nhau. Tính cách nương dựa lẫn nhau, tùy thuộc lẫn nhau (interdependent) chính là nghĩa duyên sanh. Chẳng hạn, một cái bàn để được cấu thành phải có đầy đủ bộ phận, mặt bàn được bào láng, bốn chân, đinh vít, keo dán gỗ…, nếu thiếu một bộ phận nó không thành cái bàn. Về những yếu tố ở ngoài cái bàn, nó còn tùy thuộc vào những sự vật khác: mặt phẳng sàn nhà, một căn phòng che mưa nắng, có điện… Và nó cũng tùy thuộc vào người sử dụng, để làm bàn ăn, bàn nước, hay bàn làm việc. Tóm lại để một cái bàn thành một cái bàn, nó phải nương dựa vào rất nhiều cái khác để tồn tại. Sự nương dựa lẫn nhau, tùy thuộc lẫn nhau này là duyên sanh.

Tùy thuộc vào nhau để hiện hữu, nghĩa là không thể độc lập, tự đứng một mình (independent). Điều này được gọi là không có lõi cứng, trống rỗng, không có tự tánh (tánh riêng), vô tự tánh, là tánh Không.

Như vậy, bất cứ sự vật, con người nào để được cấu thành, để được hiện hữu, đều phải nhờ vào (“bởi vì”, “”, theo nguyên văn Trung luậnduyên sanh vô tự tánh, nhờ vào, nhờ có tánh KhôngTánh Khôngvô tự tánh là điều kiện căn bản cho các pháp vô tự tánh được thành. Nếu không có vô tự tánh hay tánh Không thì chẳng có pháp nào được thành, vì các pháp được thành trên căn bản vô tự tánh. Thế nên, luận nói, “Bởi vì có tánh Không, nên tất cả pháp được thành. Nếu không có tánh Không tất cả pháp đều chẳng thành”.

Có thể hỏi, “bởi vì, nhờ có tánh Không nên tất cả pháp được thành, thế thì có phải tánh Không sanh ra các pháp hay không?”

Trả lời vắn tắttánh Không không sanh ra các pháp, vì tánh Không là vô sanh. Nhưng các pháp duyên sanh lẫn nhau mà có, nên các pháp muốn được sanh ra thì phải nhờ tính chất duyên sanhvô tự tánh, nghĩa là nhờ tánh Không mà sanh ra. Như thế, tánh Không là vô sanh nên không bị nhiễm ô chút nào bởi các sự sanh ra của những nhân duyên, của những nghiệp duyên.

Nhưng sự sanh ra của các pháp thực chất là duyên sanhvô tự tánh nên sự sanh ra của tất cả các pháp đều là vô tự tánh, là tánh Không. Kinh nói “sắc tức là Không”, nghĩa là sự sanh ra của sắc là tánh Khôngvô tự tánh, thật ra là vô sanh.

2/ Chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối

Cũng trong chương Quán Tứ Đế này, có những câu nói về chân lý tương đối (thế tục đế) và chân lýtuyệt đối (chân đếđệ nhất nghĩa đế):

8. Chư Phật nương hai đế
Vì chúng sanh thuyết pháp
Một là thế tục đế
Hai, đệ nhất nghĩa đế.

9. Nếu người chẳng thể biết
Phân biệt nơi hai đế
Thì với Phật pháp sâu
Chẳng biết chân thật nghĩa.

10. Nếu chẳng nương tục đế
Chẳng đắc đệ nhất nghĩa
Chẳng đắc đệ nhất nghĩa
Ắt chẳng đắc Niết bàn.

(8. Chư Phật y nhị đế

Vi chúng sanh thuyết pháp
Nhất dĩ thế tục đế
Nhị đệ nhất nghĩa đế.

9. Nhược nhân bất năng tri
Phân biệt ư nhị đế
Tắc ư thâm Phật pháp
Bất tri chân thật nghĩa.

10. Nhược bất y tục đế
Bất đắc đệ nhất nghĩa
Bất đắc đệ nhất nghĩa
Tắc bất đắc Niết bàn. )

Chân lý tương đối và quy ước (thế đế) là sự thật tương đối mà người ta dùng hàng ngày, cái bàn, cái cây, ngọn núi, dòng sông… Với đạo Phật thì tóm gọn lại thành những yếu tố căn bản của con người: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý…

Đức Phật dựa vào những chân lý tương đối và quy ước của thế gian để giảng dạy chân lý tuyệt đốiTóm lạichân lý tương đối là danh và tướng và chân lý tuyệt đối là bản tánh của các sự vật, bản tánh của danh và tướng.

Chân lý tương đối là sắc, thanh, hương… và chân lý tuyệt đối là bản tánh của chúng, tức là tánh Không.

Nương vào tục đế là các sự vật để chứng đắc được bản tánh của chúng là tánh Không, hay đệ nhất nghĩa đế. Trong câu 10 ở trên, luận nói rõ đệ nhất nghĩa đế là Niết bàn. Như thế tánh Không là chân thật nghĩa, là đệ nhất nghĩa đế, là Niết bàn.

Với Trung luận nói riêng và hệ thống kinh Bát nhã ba la mật đa nói chung, người ta không tìm kiếmtánh Không đệ nhất nghĩa đế ở ngoài thế đế là các sự vật, ngoài tâm thức mình cùng các ý tưởngvà phiền não của nó. Người ta không tìm để thấy tánh Không ngoài sắc, thọ, tưởng, hành, thức, sắc thanh hương vị xúc pháp, vì như Bát nhã tâm kinh nói, “sắc tức là Không, Không tức là sắc. Thọ tưởng hành thức cũng lại như vậy”. Cũng như người ta có thể tìm thấy đại dương ngay trong những làn sóng, vì cả hai cùng một tánh nước.

Để thấy tánh Khôngsự thật vô tự tánh của tất cả các pháp, gồm cả của tâm thức, người ta phải thấy sự thật vô tự tánh của mọi sự. Để thấy đệ nhất nghĩa đế tánh Không, người ta phải thấy sự vô tự tánh của tất cả thế đế.

Thấy sự vô tự tánh của thế đế, đó là tánh Không. Rồi an trụ miên mật trong cái thấy tánh Không ấy, đó là thực hành Trí huệ Bát nhã ba la mật.

 

3/ Trong Trung luận và trong Hồi tránh luận, ngài Long Thọ không chỉ nói đến tánh Không mà còn nhấn mạnh đến Trung đạo:

Pháp do các nhân duyên sanh
Ta nói tức là Không
Cũng tức là giả danh,
Cũng là nghĩa Trung đạo.
(Chúng nhân duyên sanh pháp

Ngã thuyết tức thị Không
Diệc vi thị giả danh
Diệc thị Trung đạo nghĩa)

Trung luận, quán Tứ đế, câu 18.

Con đảnh lễ Đức Phật
Đại trí huệ vô thượng
Dạy tánh Khôngnhân duyên sanh
Cùng Trung đạo, là một.
(Không tự thể nhân duyên

Tam nhất Trung đạo thuyết
Ngã quy mạng lễ bỉ
Vô thượng đại trí huệ).

Hồi tránh luận, câu chót.

Cả hai bài kệ đều nói duyên sanhtánh Không và Trung đạo là một, không khác nhau. Vậy Trung đạo là gì?

Trung đạo là “sắc tức là Không”, nhưng không phải phá hoại sắc để có Không. Sắc vẫn tự là sắc, nhưng sắc tức là Không. Không phải phá hủy sắc để thành Không, thế nên có câu tiếp, “Không tức là sắc”. Trung đạo không phải là thu sắc về Không, cũng không phải Không là không có sắc.

Thế đế là sắc, thọ, tưởng…, sắc, thanh, hương, vị… Thế đế nếu không bị phiền não che chướng, các vọng tưởng thêm vào, các đặt tên để cường điệu theo cảm xúc, thì các pháp ấy được thấy “đúng như thật”, “y như chúng là”. Khi ấy Trung luận và các kinh gọi đó là “thật tướng của các pháp”.

7. Thật tướng của các pháp
Tâm hànhngôn ngữ dứt
Vô sanh cũng vô diệt
Tịch diệt như Niết bàn.
(Chư phápthực tướng giả

Tâm hành ngôn ngữ đoạn
Vô sinh diệc vô diệt
Tịch diệt như Niết bàn).

Trung luận, Quán về pháp, XVIII

Thế đế không bị phiền não nhiễm ô chính là thật tướng của các pháp, là đệ nhất nghĩa đế, là Niết bàn.

Cho nên không lìa ngoài thế đế, lìa ngoài sanh tử mà riêng có Niết bàn:

10. Chẳng lìa ngoài sanh tử
Mà riêng có Niết bàn
Nghĩa thật tướng như vậy
Cớ sao lại phân biệt?
(Bất ly ư sanh tử

Nhi biệt hữu Niết bàn
Thực tướng nghĩa như thị
Vân hà hữu phân biệt?

Trung luận, Quán về trói - mở, XVI



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1593)
Ba đứa chơi thân với nhau tự thuở nào, thiên hạ ai cũng bảo ba đứa ấy như hình với bóng
(Xem: 1768)
Năng lễ, sở lễ tánh Không tịch Cảm ứng đạo giao nan tư nghì
(Xem: 1615)
Nắng như thiêu đốt suốt những ngày qua. Luồng gió nóng thốc qua sân nhà tưởng chừng làm héo hắt thêm cho những
(Xem: 1500)
Ngũ là năm. Uẩn có nhiều nghĩa, như: chắc chắn, nhóm, thành phần hay yếu tố
(Xem: 1275)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu biết về hơi thở.
(Xem: 1406)
Người tu ở một mình hay cùng với đại chúng, chuyên tu hay đi vào đời để hoằng phápsở thích, hạnh nguyện riêng của mỗi người.
(Xem: 1359)
Nhiều Thiền sư tiếp cận với cộng đồng Hoa Kỳ và Tây phương, trong những thời gian đầu dạy Thiền, thường tránh nói về giới,
(Xem: 1400)
Khi sợ hãi, lo lắng, tâm ta đắm chìm trong những ý nghĩ về các biến cố kinh khủng có thể xảy ra trong tương lai.
(Xem: 1359)
Ăn chay là một thói quen ăn uống phổ biến gần gũi với tinh thần từ bi của Phật giáo.
(Xem: 1320)
“Xứng tánh làm Phật sự” là một câu trong bài nguyện hương mở đầu cho bất kỳ thời tụng kinh nào.
(Xem: 1540)
Sinh tử phiền não của mỗi người, đều phải dựa vào công năng tu hành của chính bản thân để đạt được giải thoát;
(Xem: 1606)
Một khi thân tâm ta thanh tịnh, hoàn cảnh sẽ tùy thuộc thanh tịnh.
(Xem: 1669)
Trong cuộc sống, dù khôn khéo hay thánh thiện đến mấy thì không một ai có thể tránh khỏi bị miệng lưỡi người đời chê trách,
(Xem: 1546)
Rất khó tìm hạnh phúcthế gian này. Thật vậy, khi nhìn quanh, ta không thấy gì ngoài đau khổ, phiền muộnhỗn loạn.
(Xem: 1516)
An cưcấm túc ở một chỗ, hạn chế tuyệt đối sự đi lại và nỗ lực tu học trong ba tháng mùa mưa, gọi là kiết hạ.
(Xem: 1289)
Trung Luận của Bồ tát Long Thọ phá trừ mọi bám chấp thuộc về kiến (cái thấy, quan niệm) của con người để hiển bày tánh Không.
(Xem: 1442)
Giáo pháp của Đức Phật nhằm hướng dẫn, giúp chúng sinh đối trị, vượt qua phiền não của chính mình để chuyển hóa thân tâm
(Xem: 1409)
Giới lớn nhất là giới bình đẳng. Phải thấy tâm bình đẳng. Phải giữ tâm bình đẳng.
(Xem: 1483)
Trong tâm lý học, cảm tính là một nội hàm bao gồm những cảm xúc bên trong con người, là một quá trình
(Xem: 1530)
Sáu pháp môn mầu nhiệm, Hán gọi là Lục diệu pháp môn. Nghĩa sáu phương pháp thực tập thiền quán, giúp ta đi vào cửa ngõ của định và tuệ, cửa ngõ giải thoát hay Niết bàn.
(Xem: 1600)
Câu hỏi là làm thế nào để đem lại sự an tĩnhan lạc nội tâm trong đời sống hằng ngày của bạn và quan trọng hơn nữa là ...
(Xem: 1450)
Thân thể đau nhức mỏi nhừ, từng đốt xương rã rời như rụng rơi, những sợi cơ dường đã xơ cứng vô dụng,
(Xem: 1577)
Căn cơ của một người bình thường không thể nào biết được có kiếp trước hay kiếp sau.
(Xem: 1466)
Khi tâm thanh tịnh, người ta sẽ thấy thế giới thanh tịnh. Kinh Duy Ma Cật, phẩm Phật quốc thứ nhất, Đức Phật nói với trưởng giả Bảo Tích:
(Xem: 1417)
Cái ta trong đạo Phật gọi là ngã, trong triết học gọi là bản ngã, còn cái của ta gọi là ngã sở, tức là những sở hữu của cái ta.
(Xem: 1511)
rong hệ thống triết học và lề lối suy nghĩ của Tây Phương thì thế giới này có thật, sơn hà đại địa, con người và cái Tôi hay cái Ngã
(Xem: 1420)
Lần giở từng trang kinh Trung bộ - một trong 5 bộ kinh thuộc Kinh tạng Pāli, người đọc có thể dõi theo những bước chân của Đức Phật
(Xem: 1591)
Trong kiếp sống nhân sinh đầy gió bụi này, ai cũng mang trên người một chữ NGHIỆP.
(Xem: 1873)
Thế gian này đang quá nhiều bi thương, bởi con người còn đầy dẫy tham sân si, sống ích kỷ, đố kỵ, chỉ biết lo thâu tóm cho riêng mình,
(Xem: 1550)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1850)
“Phật Pháp cao siêu rất nhiệm mầu Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu Nay con nghe thấy chuyên trì tụng Nguyện hiểu Như Lai nghĩa nhiệm mầu”
(Xem: 1430)
Đôi khi những điều hữu ích nhất mà chúng ta học được không đến từ những người thầy mà từ những người như chúng ta, chỉ đang cố gắng để làm tốt nhất có thể với cuộc sống này.
(Xem: 1376)
Việt Nam cũng như cộng đồng Phật giáo Việt Nam hải ngoại, Phật giáo bắc truyền chiếm đa số, phần lớn tu sĩcư sĩ đều tu học theo truyền thống bắc tông.
(Xem: 1575)
Phật pháp lớn như biển, tin là con người có khả năng, nghi là khả năng chướng ngại.
(Xem: 1429)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1513)
Trong câu chuyện hằng ngày, thỉnh thoảng chúng tôi có nghe một vài thiền sinh nhắc đến cụm từ “Vạn pháp tùy duyên”,
(Xem: 1678)
Hiện nay có một hiện tượng đáng ngại là một số tu sĩ thuyết pháp có một số tín đồ nghe theo, hoặc là ...
(Xem: 1878)
Nhiều người hôm nay đang mạnh khỏe, rồi bỗng dưng ngã bệnh và chết ngay hôm sau.
(Xem: 1910)
Con người thường sợ cái chết nên làm mọi cách để níu kéo sự sống, níu kéo bằng tiền bạc, bằng thuốc men, thức ăn, bằng các hoạt động thể chất.
(Xem: 1732)
Vô sanh là một từ được nói trong kinh điển cả hệ Pali và hệ Sanskrit, và trong mọi tông phái, để chỉ giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 1909)
Sự sợ hãi là tập tính của con người khi mà những gì bất lợi xảy ra thì kéo theo sự sợ hãi bị ảnh hưởng liên lụy tác động đến mình.
(Xem: 1595)
Trong cuộc sống thì sự vật hiện tượng luôn thay đổi không ngừng, trong sự biến chuyển vô thường không cố định thì bất cứ hiện tượng sự vật...
(Xem: 1535)
Đức Phật dạy chúng ta phát triển giá trị nội tại bằng cách thiền quán về thiện ý, nhưng bạn phải có ý định thực hiện điều đó thì mới thực sự có kết quả
(Xem: 2075)
Mục tiêu của Kinh Hoa Nghiêm (Avatamsaka, Gandavyuha) là giúp ta có được cuộc sống an nhiên, tự tại, hạnh phúc ngay ở đây và bây giờ…
(Xem: 1681)
Có hai loại Bồ Đề Tâm: Bồ Đề Tâm Nguyện và Bồ Đề Tâm Hạnh.
(Xem: 1601)
Một thời đức Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikaṁba. Lúc ấy, thôn trưởng Asibandhakaputta đến gặp Đức Thế Tôn;
(Xem: 1546)
Quá nửa đời người rong ruổi giữa dòng đời, một ngày kia y soi kiếng chợt nhận thấy...
(Xem: 1535)
Khi giác hạnh đã viên mãn thì thọ mệnh Đức Phật tuổi đã bát tuần (80).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant