TAM
BẢOVĂN CHƯƠNG Đoàn Trung Còn biên soạn, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính
IV. Ảnh hưởng của ngôi Tam Bảo đối với dân ta
C. Ảnh hưởng của ngôi Tam Bảo trong những áng văn thơ
Chẳng riêng gì hạng bình dân, chẳng riêng gì trang niên thiếu, mà ngay trong hàng thượng lưutrí thức, trong bậc trung niên và lão thành cũng
chịu ảnh hưởngtinh vi của đạo Phật nữa. Bậc sĩ phu của ta đã từng cảm
mến giáo lýtừ bi của đạo thiền, và các hàng tao nhân mặc khách, các tay thi bá, văn nhân đều thừa hưởngtinh thần nhà Phật. Cho nên trong các áng văn thơ, trong tuồng, truyện từ xưa đến nay, ta thường thấy có lắm
danh từ của nền văn chươngPhật học.
Lại có nhiều chương, nhiều đoạn nương sức tiếp trợ của một nhà chùa, mượn sự cứu hộ của một nhà sư, nhờ sức tế độ của một đức Phật, của một
đức Bồ Tát mà thành ra thâm thúy và nghiêm trang. Kìa như một tay anh hùng vì háo nghĩa, giết phường ỷ thế hiếp cô, tự bó tay để cho người ta làm tội, rồi vượt ngục, vào tá túc nơi nhà chùa xem kinh đọc kệ:
Vừa may mà gặp chùa này,
Mai danh ẩn tích bấy chầy náu nương.
Lại như một trang thư sinh lỗi lạc, nhưng gặp lúc cùng đồ, thân mang bệnh ngặt, thế mà được các sư nuôi nấng cho trong mấy năm trường:
Ai đi, chùa bần bạc đã không bốn vách,
Còn cậu tôi bệnh trầm kha lại giáp ba năm...
Thưa thưa, lòng kính thành bái tạ cao tăng,
Dặm diêu viễn trông chừng làng hạnh...
Diêu viễn, trông chừng làng hạnh,
Cúi đầu từ, đài kính cửa Không...
Lại nữa, như một trang thục nữ, muốn giữ tròn chữ trung, chữ hiếu, chữ
tiết, chữ trinh, bèn gieo mình xuống ngọn thủy triều, thì:
Nguyệt Nga nhảy xuống giữa vời,
Sóng thần đưa đẩy vào trong bãi rày...
Xiết bao sương tuyết đêm đông,
Mình nằm giữa bãi lạnh lùng ai hay. Quan Âm thương đứng thảo ngay,
Bèn đem nàng lại bỏ rày vườn hoa...
Đó là những chương, những đoạn trong thơ văn, truyện tích, nhờ sức từ bi của Tam Bảo, tô điểm cho thêm phần trân trọng. Lại còn biết bao thơ, tuồng, truyện, lấy lý nhân duyên, nghiệp quả, lấy tiền cănhậu báo, lý
hết cơn bỉ cực đến hồi thới lai của nhà Phật mà làm đề; thâm ý của thi
nhân, văn sĩ là muốn nêu gương lánh dữ làm lành cho nhân dân. Ấy nhờ cảm cái tinh thầnđạo Phật mà các vị ấy cọng tác vào cuộc chấn hưng nền thuần phong mỹ tục trong nước đó.
Ngoài sự nương vào ngôi Tam Bảo mà lấy tích và làm đề cho những áng văn chương, các bậc thi nhân, văn sĩ ta lại còn nhờ ảnh hưởng của Phật, Pháp, Tăng trong sự hành văn của mình nữa. Trong mỗi áng văn, thơ, ta đều thấy rất nhiều danh từ văn chương nhà Phật.
Về việc này, ta có thể phân các thi nhân, văn sĩ của ta ra hai nhóm. Một nhóm những người chưa từng đọc qua kinh sách nhà Phật, và một nhóm vốn
đã làu thông đạo lýdiệu huyền. Nhóm thứ nhất nhờ cảm mến giáo lýtừ bi do các sách ngoài hoặc do xã hộiViệt Nam mình đã từng chịu ảnh hưởnglâu đời của Tam Bảo mà hay dùng những danh từ nhà Phật trong lúc hành văn. Còn nhóm thứ hai thì nhờ có hâm mộtriết học nhà Phật, thường viếng chùa, xem kinh, cho nên trong sự hành văn thường dùng danh từ nhà Phật
mà văn chương có bề lưu loát, thâm trầm và siêu việt hơn.
Như Nguyễn Đình Chiểu (Đồ Chiểu), Bùi Hữu Nghĩa (Thủ khoa Nghĩa) không
mấy khi xem kinh Phật; còn Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm và tác giảvô danh
của quyển Quan Âm Thị Kính thì rất hâm mộvăn chươngPhật học, rất tinh thông về Phật lý. Tuy vậy, bên nào cũng có được ảnh hưởng nhà Phật trong thi văn của mình.
Dưới đây, muốn làm rõ những ảnh hưởng ấy, tôi xin trích ra những đoạn văn trong các quyển: Lục Vân Tiên, Kim Thạch Kỳ Duyên, Kim Vân Kiều, Cung Oán Ngâm Khúc và Quan Âm Thị Kính.
Trong Lục Vân Tiên ta thấy:
Có người ở quận Đông Thành, Tu nhân tích đức sớm sanh con hiền.
Trực rằng: chùa rách Phật vàng,
Ai hay trong quán ẩn tàng kinh luân.
Những lăm công toại danh thành,
Nào hay từ mẫuu minh sớm dời.
Dù cho chước quỷ mưu thần, Phong trần ai cũng phong trần như ai.
Có thân phải khổ với thân,
Thân ôi thân biết mấy lần chẳng may.
Thỉnh ông Phật TổA Di, Thập phương chư Phật phù trì giúp công.
Dù cho tài trí bậc nào,
Gặp cơn nguy biến biết sao mà nhờ.
Oan gia nợ đã khéo gây,
Ôi thôi thân thể còn gì mà toan.
Nên, hư có số ở trời,
Bôn chôn sao khỏi, đổi dời sao xong.
Người đời như bóng phù du,
Sớm còn, tối mất, công phu lỡ làng.
Dương gian nay chẳng đặng gần, Âm cung biết có thành thân chăng là.
Con xin sang lạy Lục Ông,
Làm chay bảy bữa trọn cùng Vân Tiên.
Hiu hiu gió thổi ngọn cây,
Ấy là hồn trẻ về rày thăm cha.
Người ngay, Trời Phật cũng vưng, Lão bà chống gậy trong rừng bước ra.
Khi khuya nằm thấy Phật Bà,
Người đà mách bảo nên già tới đây.
Đoạn này đến thứ ra đời,
Vân Tiên thuở ấy ở nơi chùa chiền.
Nửa đem nằm thấy ông Tiên,
Đem cho chén thuốc, mắt liền sáng ra.
Suối vàng hồn mẹ có linh,
Chứng cho con thảo, lòng thành ngày nay. Xưa nay những đứa vô nghì,
Dù cho có sống làm gì nên thân.
Trịnh Hâm bị cá nuốt rày,
Thiệt trời báo ứng lẽ này rất ưng.
Thấy vầy nên dửng dừng dưng,
Làm người ai nấy thì đừng bất nhân.
Oan gia nợ ấy trả xong,
Thiếu chi nên nổi mà mong tới đòi.
Trời kia quả báo mấy hồi, Tiếc công son điểm phấn dồi bấy lâu.
Trong Kim Thạch Kỳ Duyên ta thấy:
Nghiêng vai, ngửa vái Phật Trời,
Đương cơn hoạn nạn, độ ngườitrầm luân. Gần đây nọ sẵn am vân,
Vào đó họa nhờ thang thuốc.
Ưng ai chư phương Phật, ơn chín Trời mười Phật, cứu nạn sĩ siêu sanh.
Tôi nói thật, sau nhẫn dù gặp vận thới hanh,
lòng khẩn nguyện sùng tu Phạm võ.
Oan kết theo hồn Tinh Vệ,
Lụy rơi hóa huyết Đỗ Quyên. Mênh mông sóng thảm bủa đầu thuyền,
Lai láng gió sầu xao mặt nước.
Phú quý tợ môn tiền tuyết,
Còn ân tình như thảo thượng sương.
Chữ dinh hư hữu số,
Tình chung thỉ bất vong Công danh như bào huyễn.
Phú quý tợ phù vân.
Hoa viên kíp tới, mặt ngọc tỏ trình,
Cơn rứa chừ, đỏng đưa một chiếc thuyền tình.
Dù Kim Ngọc là Phật, Bồ Tát đi nữa,
Là cũng phải: Chìm đắm mấy con sóng sắc, chớ.
Tôi có nghe trên chùa Thiên Trúc làm chay,
Chừ, thắt thẻo ruột tằm quá đói. Lần hồi chân gượng phải đi,
Họa là nhờ cửa từ bi,
Ngõ đặng qua cơn khổ não.
Vẳng nghe mõ cá chuông kình,
Gượng lần bước tới ngõ đành hóa duyên.
Tham những giàu sangtrước mắt,
Ai dè cực khổ sau lưng.
Mình làm ra sự tệ,
Trời thật có mắt coi.
Trong Truyện Kiều ta thấy:
Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau. Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
Âu đành quả kiếp nhân duyên,
Cũng người một hội một thuyền đâu xa.
Ví chăng duyên nợ ba sanh,
Làm chi những thói khuynh thành trêu ngươi.
Trông ra ngọn cỏ lá cây,
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
Nào hay chưa hết trần duyên,
Trong mê dường đã đứng bên một nàng.
Rỉ rằng: Nhân quảdở dang,
Đã toan trốn nợ đoạn tràng được sao?
Số còn nặng nghiệp má đào,
Người dù muốn quyết, trời nào đã cho
Đánh liều nhắn một hai lời,
Nhờ tay tế độ vớt người trầm luân.
Kiếp xưa đã vụng đường tu,
Kiếp này chẳng kẻo đền bù mới xuôi.
Vẻ chi chút phận bèo mây,
Làm cho bể ái khi đầy khi vơi.
Trăm điều ngang ngửa vì tôi,
Thân sau ai chịu tội trời ấy cho.
Người này nặng kiếp oan gia,
Còn nhiều nợ lắm, sao đà thác cho?
Khi chè chén, khi thuốc thang,
Đem lời phương tiện, mở đường hiếu sinh.
Đã đành túc tráitiền oan,
Cũng liều ngọc nát, hoa tàn mà chi!
Lãnh lời nàng mới theo sang,
Biết đâu địa ngục, thiên đường là đâu.
Tìm đâu cho thấy cố nhân,
Lấy câu vận mạng, khuây dần nhớ thương.
Sinh rằng: Thật có như lời,
Hồng nhan bạc mệnh, một người nào vay.
Nghìn xưa âu cũng thế này, Từ bi âu liệu bớt tay mới vừa.
Phật tiền, thảm lấp sầu vùi,
Ngày pho thủ tự, đêm nhồi tâm hương. Cho hay giọt nước cành dương,
Lửa lòng, tưới tắt mọi đường trần duyên.
Sớm khuya lá bối phướn mây, Ngọn đèn khêu nguyệt, tiếng chày nện sương.
Đầu xanh đã tội tình gì, Má hồng đến quá nửa thì, chưa thôi.
Người sao hiếu, nghĩa đủ đường,
Kiếp sao rặt những đoạn trường thế thôi?
Sư rằng: Phúc họa đạo trời,
Cội nguồn cũng ở lòng người mà ra.
Có trời mà cũng tại ta,
Tu là cỗi phúc, tình là dây oan.
Sư rằng: Song chẳng hề chi,
Nghiệp, duyên cân lại, nhắc đi còn nhiều.
Khi nên trời cũng chiều người,
Nhẹ nhàng nợ trước, đền bồi duyên sau.
Giác Duyên dù nhớ nghĩa nhau, Tiền Đường thả một bè lau rước người.
Trước sau cho vẹn một lời,
Duyên ta mà cũng phúc trời dư không.
Tấm thành đã thấu đến Trời,
Bán mình là hiếu, cứu người là nhân.
Còn nhiều hưởng thọ về sau,
Duyên xưa đầy đặn, phúc sau dồi dào.
Một nhà chung chạ sớm trưa,
Gió trăng mát mặt, muối dưa chay lòng.
Đã đem mình bỏ am mây,
Tuổi này gởi với cỏ cây cũng vừa.
Mùi thiền đã bén muối dưa,
Màu thiền ăn mặc đã ưa nâu sồng.
Sự đời đã tắt lửa lòng,
Còn chen vào chốn bụi hồng làm chi. Dở dang, nào có hay gì,
Đã tu, tu trót, qua thì, thì thôi.
Gẫm hay muôn sự tại trời,
Trời kia đã bắt làm người có thân.
Bắt phong trần, phải phong trần,
Cho thanh cao mới được phần thanh cao.
Có đâu thiên vị người nào,
Chữ tài chữ mệnh dồi dào cả hai.
Có tài mà cậy chi tài,
Chữ tài liền với chữ tai một vần.
Đã mang lấy nghiệp vào thân,
Cũng đừng trách lẫn trời gần, trời xa. Thiện căn ở tại lòng ta,
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.
Trong Cung oán ngâm khúc ta thấy:
Vắt tay nằm nghĩ cơ trần,
Nước dương muốn rẫy nguội lần lửa duyên.
Kìa thế cuộc như in giấc mộng,
Máy huyền vi mở đóng khôn lường.
Vẻ chi ăn uống sự thường,
Cũng còn tiền định, khá thương lọ là.
Gót danh lợi bùn pha sắc sậm,
Mặt phong trần nắng rám mùi dâu.
Nghĩ thân phù thế mà đau,
Bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê.
Mùi tục lụy, lưỡi tê tân khổ,
Đường thế đồ, gót rỗ khi khu.
Trăm năm còn có gì đâu,
Chẳng qua một nấm cổ khâu xanh rì.
Ngày mượn thú tiêu diêu cửa Phật,
Mối thất tình quyết dứt cho xong. Đa mang chi nữa đèo bòng,
Vui gì thế sự mà mong nhân tình.
Lấy gió mát trăng thanh kết nghĩa,
Mượn hoa đàm, đuốc huệ làm duyên.
Hẳn túc trái làm sao đây tá?
Hay tiền nhânhậu quả xưa kia?
Hay thiên cung có điều gì,
Xuống trần mà trả nợ đi cho rồi.
Miếng cao lương phong lưu nhưng lạm,
Mùi hoắc lê thanh đạm mà ngon.
Trong Quan Âm thị Kính ta thấy:
Nhân sanh thành Phật dễ đâu, Tu hành, cứu khổ rồi sau mới thành.
Ai hay bền dạ làm lành, Chứng minh trong chốn minh minh cũng tường.
Có phen thề thốt dưới trăng,
Một rằng thế thế, hai rằng sinh sinh.
Vì đâu phút hợp, phút ly,
Kiếp này đã lỡ, chắc gì kiếp sau?
Có khi dốc chítu hành,
Lánh mình trần tục, nương mình thiền môn. Độ trì nhờ đức Thế Tôn,
Lỡ làng thuở trước, vuông tròn mai sau.
Cửa thiền sẽ lén chân coi,
Trông lên sư cụ vừa ngồi tụng kinh;
Mưa hoa rảy khắp bên mình,
Nhấp nhô đá cũng xếp quanh gật đầu
Chán vùng danh lợi, phiền hoa, Chắp tay xin đến thiền già quy y.
Đoái trông thế sự nực cười,
Như đem trò rối mà chơi khác gì. Phù vân một đóa bay đi,
Khi thì áo trắng, lúc thì chó đen.
Chật đường hồ thỉ như nen,
Cân đai cố phục người quen với mình.
Chẳng thèm ra áng công danh,
Mà đem thân thế làm hình dịch chi.
Cho nên mến cảnh từ bi,
Dám xin nhờ đức tăng ni mở lòng.
Kìa bào, kìa ảnh phút qua,
Kìa sương, kìa chớp, kìa là chiêm bao.
Lựa là tranh trí thấp cao,
Kẻ xem khoái chí, người gào thất thanh.
Lấy ai làm nhục làm vinh,
Trăm năm là áng ngàn xanh rì rì.
Vâng lời, lãng cảnh ngọc phương,
Khêu đèn Bát-nhã, đóng chuông Tam thiền.
Này gươm trí huệ mài đây,
Bao nhiêu phiền não cắt ngay cho rồi.
Lấy chi làm chuyện giải phiền?
Quyển kinh trăm lá, ngọn đèn một hoa.
Chữ rằng: nhẫn nhục nhiệm hòa, Nhẫn điều khó nhẫn mới là chân tu,
Nhưng, thời trong dạ hiếu sanh,
Phước thì làm phước, dơ đành tiếng dơ.
Dẫu xây chín đợt phù đồ,
Sao bằng làm phước cứu cho một người.
Miền Bát-nhã tìm vào mây khói,
Nương bè từ vượt khỏi sông mê.
Đuốc quang minh đốt cháy thành sầu,
Biển khổ hạnh cháy lên Đại giác.
Từ những lời ăn tiếng nói, những câu ca dao, những danh từ trong các văn thơ, tuồng, truyện... ta thấy rằng người Việt Nam ta thấm nhuầntinh thần nhà Phật một cách đằm thắm, sâu xa. Từ trên tới dưới, từ già chí trẻ, từ nam tới nữ, dù có xem kinh điển nhà Phật hay không, dù có thường viếng chùa lễ Phật hay không, ai nấy đều thấm nhuầntinh thầntừ bihỷ
xả của Phật, cũng như các đạo lýnhân quả, luân hồi trong các kinh Phật. Nhờ vậy mà sự sống của dân tộc ta được êm ái, hiền hòa và thuần túy.
Vậy thì từ đây, mong rằng những vị chưa từng xem quakinh điển nhà Phật nên để ra chút ít thời gian mà tìm hiểu về Phật lý, điều ấy rất dễ giúp cho mình dung hòa cõi đời với cõi đạo, rất dễ làm cho mình an ổnthân tâm, và có công hiệu nhất trong việc khuyên lơn, an ủi để mình vững chí mà tiến bước lên trong những công việc ích mình lợi người.
Và cũng mong rằng những vị đã xem qua kinh sách nên xem cho nhiều hơn,
và tùy sức mình mà thi hành theo giáo lý của đức Phật, để cho hạt giống Bồ-đề càng ngày càng mở mang ra vậy.
“Nói Thiền tôngViệt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
Tôi đặt bút bắt đầu viết "Lời Vào Sách" nầy đúng vào lúc 7 giờ sáng ngày 21 tháng 6 năm 1995 sau khi tụng một thời kinh Lăng Nghiêm và tọa thiền tại Chánh điện.
Có lẽ đây cũng là một trong những viễn ảnh của tâm thức và mong rằng những trang sách tiếp theo sẽ phơi bày hết mọi khía cạnh của vấn đề, để độc giả có một cái nhìn tổng quát hơn.
Ai trói buộc mình? Không biết có bao giờ chúng ta tự đặt câu hỏi đó với chúng ta chưa? Đến chùa học pháp hay đi tu chỉ để cầu giải thoát. Mục đíchtu hoặcxuất gia là cầu giải thoátsinh tử. Giải thoát có nghĩa là mở, mở trói ra. Cầu giải thoát là đang bị trói. Nhưng ai trói mình, cái gì trói mình? Khi biết mối manh mới mở được.
Sống Trong Từng Sát Na là phương phápthực tập sống tỉnh thức, sống và ý thức về sự sống trong từng mỗi phút giây. Đây là phương thức tu tậpdựa trêntinh thần Kinh Bốn Lãnh VựcQuán Niệm.
Nhẫn nhục là thù diệu nhất vì người con Phật thực hành hạnh nhẫn nhụcthành thục, thì có thể trừ được sân tâm và hại tâm, là nhân tố quan trọng để hành giảthành tựutừ tâmgiải thoát và bi tâmgiải thoát.
Một bản dịch về Thiền Nhật Bản vừa ấn hành tuần này. Sách nhan đề “Thiền Lâm Tế Nhật Bản” của tác giả Matsubara Taidoo. Bản Việt dịch do Hòa Thượng Thích Như Điển thực hiện.
Tuyển tập “Bát Cơm Hương Tích” của Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng là một phần lớn của đời tác giả, ghi lại những gì Thầy mắt thấy tai nghe một thời và rồi nhớ lại...
Quyển sách "Hãy làm một cuộc cách mạng" trên đây của Đức Đạt-lai Lạt-ma khởi sự được thành hình từ một cuộc phỏng vấn mà Ngài đã dành riêng cho một đệ tửthân tín là bà Sofia Stril-Rever vào ngày 3 tháng giêng năm 2017.
Người đứng mãi giữa lòng sông nhuộm nắng, Kể chuyện gì nơi ngày cũ xa xưa, Con bướm nhỏ đi về trong cánh mỏng, Nhưng về đâu một chiếc lá xa mùa (Tuệ Sỹ)
Một năm lại sắp trôi qua với những vết tích điêu tàn, khổ nạn để lại trên khắp trái đất. Nhìn lại, chúng ta không khỏi giật mình, và chạnh lòng thương tưởng
Một năm lại sắp trôi qua với những vết tích điêu tàn, khổ nạn để lại trên khắp trái đất. Nhìn lại, chúng ta không khỏi giật mình, và chạnh lòng thương tưởng
Trong tập sách nhỏ này tôi đã bàn đến hầu hết những gì mọi người đều công nhận là giáo lý tinh yếu và căn bản của Đức Phật... Con Đường Thoát Khổ - Đại đức W. Rahula; Thích NữTrí Hải dịch
Tôi cảm động, vì sống trong đạo giải thoát tôi đã tiếp nhận được một thứ tình thiêng liêng, trong sáng; một thứ tình êm nhẹ thanh thoát đượm ngát hương vị lý tưởng...
Đọc “Dấu Thời Gian” không phải là đọc sự tư duysáng tạo mà là đọc những chứng tíchlịch sửthời đại, chứng nhân cùng những tâm tình được khơi dậy trong lòng tác giảxuyên qua những chặng đường thời gian...
We use cookies to help us understand ease of use and relevance of content. This ensures that we can give you the best experience on our website. If you continue, we'll assume that you are happy to receive cookies for this purpose.