Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

09. Tôi từ chối là cái nạng của bạn

17 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 6540)
09. Tôi từ chối là cái nạng của bạn

SỐNG CHẾT CỦA KRISHNAMURTI
MỘT TIỂU SỬ VIẾT BỞI MARY LUTYENS
Lời dịch: Ông Không – Tháng 7-2009

9

Tôi từ chối là cái nạng của bạn

Tháng mười 1927 K đi đến Ấn độ cùng Mrs Besant. Ngày 27 khi tàu cập bến tại Bombay, Mrs Besant tuyên bố về anh cho những phóng viên gặp họ: ‘Tôi xác nhận rằng anh đã được nhận xét là xứng đáng . . . hòa hợp ý thức của anh cùng ý thức của một; một amsa một bộ phận, của ý thức hiện diện mọi nơi của Thầy Thế Giới . . . và bây giờ anh đã trở lại cùng các bạn, cùng những con người riêng của anh, cùng chủng tộc riêng của anh, tuy nhiên lại vượt khỏi cả hai, bởi vì anh dành cho toàn thế giới.’

 Ảnh hưởng của lời công bố chính thức này vào những người Ấn độ, mà khuynh hướng tự nhiên của họ là phủ phục đầy sùng kính, có thể tưởng tượng được. Tuy nhiên, Arundale viết một bài trong tờ Theosophy in India giải thích những tình huống không thể xảy ra được mà K đã gặp vào mùa đông đó, và sự hoang mang của những người Huyền bí học: ‘Chủ tịch của chúng ta đã tuyên bố rằng Chúa ở đây . . . Lúc này tôi không thể nhất trí với tuyên bố này . . . với hiểu biết riêng của tôi về Chúa khi Ngài ở trong thân thể rực rỡ của Ngài.’

Leadbeater có mặt tại Adyar cho Hội nghị Theosophy vào tháng mười hai. Ngày 8 K viết cho Lady Emily: ‘Con đã có một nói chuyện thật lâu với ông . . . quá kinh ngạc khi ông đồng ý với con về mọi vấn đề. Ông hỏi con rằng con cảm thấy như thế nào, và con trả lời với ông không có Krishna – con sông và biển cả.[1] Ông nói, đúng rồi, giống như những quyển sách của những người cổ xưa, tất cả đều đúng thực. Ông rất tử tế và tỏ vẻ cung kính lạ thường.’

 

 Tháng giêng K viết lại cho Lady Emily và kể với bà rằng bộ đầu của anh đã bị đau đớn kinh khủng và anh đã bị ngất xỉu nhiều lần. Lúc này sự đau đớn không bao giờ rời anh, mặc dù nó không ngăn cản anh đi quanh Ấn độ để nói chuyện. Anh thất vọng vì Leadbeater không thể giải thích về sự tiếp tục của đau đớn. K đã chấp nhận tất cả những gì mà anh phải chịu đựng như là sự chuẩn bị của thân thể cho sự cư ngụ của Chúa, tuy nhiên bây giờ anh đã đạt được ‘hợp nhất cùng Đấng Thương Yêu’ anh thắc mắc tại sao sự đau đớn vẫn tiếp tục.

 Người bạn đi cùng anh, lúc này Rajagopal ở tại Ojai cùng Rosalind, là một người bạn cũ, Judunandan Prasad (Jadu). Jadu đã ở tại Pergine và tại họp mặt Eerde mùa hè trước. Anh là một thanh niên đẹp đẽ, giống Nitya về tính nết nhiều hơn Rajagopal, và K cảm thấy một đồng cảm tự nhiên nhiều hơn với anh ấy. K quay lại Châu âu cùng anh ấy vào cuối tháng hai. Lần đầu tiên trên một chuyến đi, K tổ chức những bàn luận cùng những hành khách thân thiện sau những yêu cầu được lặp lại từ họ để tiếp tục bàn luận.

 Ngày 31 tháng ba, K thực hiện nói chuyện trước công chúng lần đầu tiên ở nước Anh tại Friends’ Meeting House. Có quá nhiều quan tâm đến độ hàng trăm người phải ra về vì không đủ chỗ. Bốn ngày sau Jadu đi tàu cùng anh đến nước Mỹ. Trại Star đầu tiên sẽ được tổ chức tại Ojai vào tháng năm, trên mảnh đất được mua bởi Mrs Besant ở đầu cuối của thung lũng, mà gồm có một cánh rừng cây sồi xanh, loại cây sồi xanh quanh năm rất đẹp của California. Nhưng trước khi trại khai mạc, K thực hiện nói chuyện trước công chúng lần đầu tiên của anh ở nước Mỹ, vào chiều tối ngày 5 tháng năm, tại Hollywood Bowl, vói 16.000 khán giả mà, theo tờ Los Angeles Times, bằng ‘sự chú ý mê mải’ lắng nghe nói chuyện của anh về ‘Hạnh phúc qua Sự Giải Thoát’.

 Chỉ có khoảng 1.000 người tham dự trại Ojai đầu tiên. Dẫu vậy, nó là một thành công to lớn. Những nói chuyện buổi sáng của K được tổ chức trong khu rừng nhỏ Oak Grove. Vào ngày 30 tháng năm, hai ngày sau khi trại bế mạc, K, Rajagopal và Jadu rời đó để đi đến nước Anh trong khi Rosalind vẫn còn ở lại Ojai. Cùng thời gian đó Mrs Besant đến nước Anh và K theo cùng bà đến Paris nơi, vào ngày 27 tháng sáu, anh nói bằng tiếng Pháp về ‘Sự Bí mật của Hạnh phúc” trên đài The Eiffel Tower Radio Station với số thính giả khoảng hai triệu người.

 Có một họp mặt đông hơn bất kỳ lúc nào trước kia tại Castle Eerde vào mùa hè năm đó trước Trại Ommen. Lúc này một nhà kho khác đã được cải tiến vì vậy có thừa chỗ cho những hội viên của Star. Leopold Stokowsky và người vợ của ông đến ở đó vài ngày và Sir Roderick Jones, Chủ tịch của Reuters, cùng người vợ của ông, nữ văn sĩ, Enid Bagnold. Bây giờ K có vô số bạn bè, thuộc nhiều quốc tịch khác nhau, nhưng một cặp vợ chồng mà anh gần gũi đặc biệt trong nhiều năm là người Ai cập sống ở Paris, Carlos và Nadine Suares.

 

***

 Mrs Besant đã dự tính có mặt tại trại Ommen theo sự thỉnh cầu đặc biệt của K, được chuyển tải trong một lá thư rất đằm thắm, nhưng bệnh tật đã ngăn cản bà. Mặc dù anh rất lo ngại cho sức khỏe của bà, sự vắng mặt của bà khiến anh có thể nói ra điều gì anh muốn tại những nói chuyện lửa trại mà không sợ gây tổn thương cho bà. Anh nói với những người tổ chức của trại, trước khi nó khai mạc, rằng anh sẽ giải tán The Order of The Star ngay tức khắc nếu nó ‘khẳng định là một con tàu chứa đựng Chân lýChân lý duy nhất’. Trong suốt những gặp gỡ, anh được đưa ra những câu hỏi như là: ‘Liệu đúng là ông không muốn những môn đồ?’; ‘Ông nghĩ gì về những nghi thức và những nghi lễ?’; ‘Tại sao ông nói với chúng tôi rằng không có những chặng đường dọc theo Con Đường?’; ‘Bởi vì ông nói với chúng tôi rằng không có Thượng đế, không có nguyên tắc đạo đức và cũng không có cả tốt lành lẫn xấu xa, lời giảng của ông khác biệt như thế nào với chủ nghĩa duy vật thông thường?’; ‘Ông là Đấng Christ trở lại?’ Những trích dẫn được cho dưới đây từ những trả lời của K chỉ rõ những người đã đưa ra những câu hỏi đó chẳng hiểu về anh bao nhiêu.

 

Tôi lặp lại rằng tôi không có những môn đồ. Mỗi người trong các bạn là một môn đồ của Chân lý nếu các bạn hiểu rõ Chân lý và không theo sau những cá thể . . . Chân lý không cho sự hy vọng; nó cho sự hiểu rõ . . . Không có sự hiểu rõ trong sùng bái cá nhân . . . Tôi vẫn khẳng định rằng tất cả những nghi lễ đều không cần thiết cho sự thăng hoa thuộc tinh thần . . . Nếu bạn muốn tìm kiếm Chân lý bạn phải đi ra ngoài, xa khỏi những giới hạn của quả tim và cái trí con người và ở đó khám phá nó – và Chân lý đó ở trong chính các bạn. Chuyển chính Sống thành mục đích không đơn giản hơn là có những người thiền định, những đạo sư, mà chắc chắn phải rời khỏi Chân lý và thế là phản bội nó? . . . Tôi nói rằng Giải thoátthể đạt được tại bất kỳ chặng đường tiến hóa nào bởi một con ngườihiểu rõ, và tôn sùng những chặng đường, như các bạn thực hiện, là không cần thiết . . . Lại nữa đừng viện dẫn tôi ra như một uy quyền. Tôi khước từ là cái nạng cho bạn. Tôi sẽ không bị nhốt vào một cái cũi vì sự tôn sùng của bạn. Khi bạn đem không khí trong lành của hòn núi và giam giữ nó trong một căn phòng nhỏ, sự trong lành của không khí đó tan biến và có sự trì trệ . . . Tôi không bao giờ nói rằng không có Thượng đế. Tôi đã nói rằng chỉ có Thượng đế khi được biểu lộ trong bạn . . . nhưng tôi sẽ không sử dụng từ ngữ God Thượng đế . . . Tôi thích gọi điều này là Sự Sống hơn . . . Dĩ nhiên không có tốt lành hoặc xấu xa . . . Tốt lành là cái mà các bạn sợ hãi; xấu xa là cái mà các bạn sợ hãi. Vậy là, nếu bạn triệt tiêu sự sợ hãi, bạn được mãn nguyện phần tinh thần . . . Khi bạn thương yêu sự sống, và bạn đặt tình yêu đó trước tất cả mọi việc, và đánh giá bằng tình yêu đó, và không phải bằng sự sợ hãi của bạn, vậy là sự trì trệ này mà bạn gọi là đạo đức sẽ tan biến . . . Các bạn ơi, đừng bận tâm tôi là ai, các bạn sẽ không bao giờ biết . . . Các bạn nghĩ Chân lýliên quan đến bất kỳ điều gì các bạn nghĩ tôi là à? Các bạn không quan tâm đến Chân lý nhưng các bạn lại quan tâm đến con tàu chứa đựng Chân lý . . . Hãy uống nước nếu nước đó sạch: Tôi nói với các bạn rằng tôi có nước sạch đó; tôi có dầu thơm đó mà sẽ tẩy uế, mà sẽ cứu rỗi nhiều lắm; và các bạn hỏi tôi: ông là ai? Tôi là tất cả những sự việc sự vật bởi vì tôi là Sự Sống.32

 

Anh bế mạc Hội nghị bằng những từ ngữ: ‘Đã từng có nhiều ngàn người tại những trại này và họ không thể làm gì trong thế giới này hay sao nếu tất cả họ đều hiểu rõ! Họ có thể thay đổi bộ mặt của thế giới vào ngày mai.’

Mrs Besant tội nghiệp, bây giờ tám mươi tuổi, đang trải qua một tuổi già bất hạnh để cố gắng hòa hợp những điều không thể hòa hợp được. Để đồng ý với tất cả những điều K nói, bà đóng cửa Esoteric Section khắp thế giới trước khi K đến Ấn độ vào tháng mười năm 1928. (Bà sẽ mở lại nó chưa đầy một năm sau.) K công nhận bà đã làm điều này rất đúng đắn. Bà không thể có mặt ở đó để đón chào anh khi anh đến Adyar, nhưng viết, ‘Con Thương Yêu . . . Mẹ đang đình chỉ tất cả The E.S. vô thời hạn, dành ưu tiên cho mọi lời giảng của con’; và ngày hôm sau, ‘Chào mừng về nhà, Con Thương Yêu. Mẹ đã làm hết sức mình để dọn dẹp một cánh đồng quang đãng cho con, con là uy quyền duy nhất.’33 Như K kể cho Lady Emily, Mrs Besant muốn từ chức Chủ tịch Theosophical Society để theo anh khắp mọi nơi nhưng Thầy của bà không cho phép. Tại tất cả những gặp gỡ ở Ấn độ vào mùa đông đó, bà quả quyết ngồi dưới đất cùng khán giả thay vì ngồi cùng anh trên bục giảng như bà luôn luôn làm trước kia. Cùng thời gian đó bà lại ủng hộ Arundale mà đang nói với K, như K kể lại cho Lady Emily: ‘Anh theo con đường của anh và chúng tôi sẽ theo con đường của chúng tôi. Tôi cũng có điều gì đó để giảng dạy.’ Mrs Besant cũng ủng hộ Leadbeater mà đã viết cho bà: ‘Dĩ nhiên Krishnaji của chúng ta không có Toàn Ý thức của Chúa’, khi bà tự viết trong tờ Theosophist tháng mười hai: ‘Ý thức vật chất của Krishnamurti không chia sẻ Ý thức Toàn cầu của Chúa Maitreya’, và trích dẫn châm ngôn của Sri Krishna: ‘Con người đến với Ta theo nhiều con đường.’ K viết cho Lady Emily rằng hiện nay có ‘một phân chia rõ ràng’ giữa anh và Theosophical Society, mà sẽ tốt lành nhiều hơn là sự giả vờ này’. Đầu và cột sống của anh đau đớn và không ai có thể giúp đỡ, ‘không như trước kia’.

 Trong khi K ở Benares năm đó, Rishy Valley Trust nhận được từ những thẩm quyền của quân đội đồng ý bán 300 mẫu đất mà K cần cho một trường học khác. Khu đất này tại Rajghat, một nơi rất đẹp trên bờ sông Ganges ngay phía bắc của Benares. Con đường của những người hành hương chạy qua khu đất, nối Kashi với Saranath nơi Phật giảng bài pháp đầu tiên sau khi giác ngộ. Tất cả vốn liếng của Trust đều được tiêu vào khu đất này nhưng nó ‘vẫn không đủ’.

 

***

 

Tháng hai năm 1929 K và Jadu lên tàu đi Châu âu. Sau những chuyến viếng thăm ngắn đến Paris, Eerde và London, họ tiếp tục đi New York. Ở London tôi đã nói với K rằng tôi đã đính hôn và sẽ lập gia đình. Từ trên tàu anh viết cho Lady Emily: ‘Thoạt đầu con rất đau khổ về tất cả việc đó – mẹ biết con có ý gì – và con suy nghĩ cẩn thận về nó trong khi ở với mẹ và lúc này thì tốt rồi. Những ý tưởng của con và tầm nhìn của con không được phép cản trở sự tăng trưởng của Mary. Sẽ chẳng có bao nhiêu người theo cùng con hết con đường. Con hy vọng em sẽ vượt khỏi nó để trở thành một bông hoa nở trọn vẹn.’ Vào cùng ngày, 5 tháng ba, anh viết cho Mar de Manziarly: ‘Tôi sẽ không bao giờ từ bỏ bất kỳ người nào nhưng mọi người sẽ từ bỏ tôi.’ Trong tất cả những bạn bè cũ của anh chỉ còn Mar là tiếp tục theo anh cho đến khi anh chết. Madame de Manziarly tìm được một phương tiện giải phóng năng lượng của bà qua phong trào thống nhất Giáo hội; Ruth đã kết hôn với một giám mục trong Giáo hội Thiên chúa giáo Tự do; K và Helen dần dần không còn thân thiện nữa (vào đầu những năm 1930 cô kết hôn với Scott Nearing); chị tôi Betty phản ứng chống lại anh rất dữ dội, như sẽ được thấy. Dĩ nhiên, nhiều người trong số những người lớn tuổi hơn vẫn còn trung thành cho đến khi họ chết, và nhiều người anh gặp sau đó vẫn trung thành cho đến khi anh chết và còn tiếp tục lâu hơn nữa, nhưng có những người chống đối anh, thông thường do bởi ganh ghét và những cảm giác bị tổn thương. Trong những ngày đầu, khi anh nói điều gì đó mà họ thích, họ sẽ khẳng định rằng đó là Chúa đang nói qua anh; khi anh nói điều gì đó mà họ không muốn nghe, chính là K đang nói. Cũng giống như vậy trong tương lai, khi anh nói điều gì đó mà họ không thể chấp nhận được, anh sẽ bị buộc tội rằng đã bị ‘ảnh hưởng’ bởi người này hay người kia.

 Bất kể sự khẳng định của K về sự hợp nhất của anh cùng ‘Đấng Thương Yêu’, anh đã không mất đi, và sẽ không bao giờ mất đi, khía cạnh con người của anh. Năm đó tại Ojai, anh, Rajagopal và Jadu ‘nói chuyện và nói chuyện, cãi cọ và hào hứng’, như anh kể cho Lady Emily. Họ cũng cười nhiều và làm trò hề và trêu ghẹo nhau. Rajagopal có tiếng cười không thể quên được – cười khúc khích có vẻ đúng hơn – trái lại tiếng cười của K lại lớn hơn và sâu hơn. Suốt sống của anh, anh luôn nhút nhát và khiêm tốn với những người lạ, không nói chuyện xã giao vặt vãnh nào. Tại nhà của chúng tôi ở London, và cùng Mrs Besant, anh đã gặp Bernard Shaw, bày tỏ anh là người đẹp đẽ nhất mà ông đã từng gặp gỡ’,34 nhưng K quá nhút nhát đến độ không nói bao nhiêu lời với ông.

 Phần thân thể K là một người đàn ông bình thường hoàn hảo mà đã được nuôi nấng để tin tưởng rằng tình dục phải bị chế ngự cho tất cả những người có mục đích trở thành những môn đồ của những Bậc Thầy, và thậm chí còn nhiều hơn nữa trong phương tiện của Chúa. Anh sẽ mất đi hoàn toàn tánh không khoan dung về tình dục này, tuy nhiên anh không bao giờ đặt nó ở mức quan trọng phải suy nghĩ. Bởi vì vẻ bề ngoài của anh, nếu không có gì thêm nữa, chắc chắn rằng nhiều phụ nữ đã đem lòng yêu anh. Đã có nhiều phụ nữ viết và khẳng định là vợ của anh, và nếu anh được trông thấy đang đi cùng một cô gái nào đó, báo chí sẽ lập tức loan tin một vụ đính hôn.[2]

Suốt sáu tuần K ở tại Ojai năm nay, trước họp trại, sự đau đớn trong bộ đầu và cột sống của anh rất khắc nghiệt và anh cảm thấy mệt đến độ một bác sĩ mới phải cảnh báo anh rằng những cơn bệnh viêm cuống phổi thường xuyên mà anh đang bị có lẽ sẽ dẫn đến bệnh lao phổi nếu anh không nghỉ ngơi nhiều; vì vậy anh hủy bỏ tất cả những nói chuyện của anh cho mùa hè, gồm cả ba giảng thuyết tại Queen’s Hall ở London, và quyết định tự giới hạn mình chỉ còn thực hiện nói chuyện tại những trại Ojai và Ommen và họp mặt Eerde.

 Trại Ojai, bắt đầu vào ngày 27 tháng năm đã có gấp đôi số người tham dự. Anh tuyên bố tại một trong những nói chuyện của anh ở Oak Grove: ‘Lúc này tôi nói, tôi nói mà không tự phụ, bằng hiểu rõ đúng đắn, bằng trọn vẹn của cái trí và quả tim, rằng tôi là ngọn lửa tròn đầy mà là sự vinh quang của sống, mà tất cả những con người, những cá thể cũng như toàn thế giới, phải đến.35

Suốt thời gian trại được tổ chức người ta đồn đại rằng chẳng mấy chốc anh sẽ giải tán The Order of The Star. Việc này anh thực hiện vài tuần sau đó. Ngày 3 tháng tám tại gặp gỡ đầu tiên của trại Ommen, trong sự hiện diện của Mrs Besant và trên 3.000 hội viên Star, cùng hàng ngàn người Hà lan đang lắng nghe trên đài phát thanh, anh chấm dứt một kỷ nguyên trong lịch sử riêng của anh. Một phần của điều gì anh đã nói được trình bày dưới đây:

 

Tôi khẳng định rằng Chân lý là một mảnh đất không lối vào, và các bạn không thể tiếp cận nó bằng bất kỳ con đường nào, bằng bất kỳ tôn giáo nào, bằng bất kỳ giáo phái nào. Đó là quan điểm của tôi và tôi trung thành với quan điểm đó một cách tuyệt đối và không điều kiện . . . Nếu các bạn hiểu rõ điều đó trước tiên, vậy thì các bạn sẽ thấy khẳng định trước một niềm tin là điều không thể được. Một niềm tin chỉ là một vấn đề thuộc cá thể, và các bạn không thể và không được tổ chức nó. Nếu các bạn làm như thế, nó trở thành chết rồi, cố định; nó trở thành một tín điều, một giáo phái, một tôn giáo, được áp đặt vào những người khác.

Đây là điều gì mọi người khắp thế giới đang cố gắng làm. Chân lý bị thu hẹp lại và bị biến thành một trò đùa cho những con người yếu ớt, cho những con người chỉ bị bất mãn trong chốc lát. Chân lý không thể bị mang xuống, trái lại cá thể phải cố gắng vươn lên nó. Bạn không thể mang đỉnh núi vào thung lũng . . . Vì vậy, theo quan điểm của tôi, đó là lý do đầu tiên tại sao The Order of The Star phải được giải tán. Bất chấp sự giải tán này, các bạn sẽ có thể thành lập những Order khác, các bạn sẽ tiếp tục lệ thuộc vào những tổ chức khác để tìm kiếm Chân lý. Tôi không muốn lệ thuộc vào bất kỳ tổ chức nào có một loại tinh thần như thế; làm ơn hiểu rõ điều này . . . 

Nếu một tổ chức được tạo ra cho mục đích này, nó trở thành một cái nạng, một hèn nhát, một giam cầm, chắc chắn phải gây lụn bại cá thể, và ngăn cản anh ấy không phát triển, không thiết lập tánh nhất quán của anh ấy, mà tối thiết để khám phá Chân lý tuyệt đối và không bị quy định đó cho chính anh ấy. Vì vậy đó là một lý do nữa tại sao tôi đã quyết định, vì tôi tình cờ là Người Đứng đầu của The Order, giải tán nó.

Đây không là một hành động vĩ đại, bởi vì tôi không muốn có những người theo sau, và tôi có ý về điều này. Khoảnh khắc các bạn theo sau người nào đó các bạn không còn theo đuổi Chân lý. Tôi không quan tâm liệu các bạn có chú ý đến điều gì tôi nói hay không. Tôi muốn làm một việc gì đó trong thế giới và tôi sẽ làm nó bằng sự tập trung kiên định. Tôi chỉ quan tâm đến một điều cốt lõi: làm con người tự do. Tôi khao khát giải thoát con người khỏi tất cả những chuồng cũi, khỏi tất cả những sợ hãi, và không phải thành lập những tôn giáo, những giáo phái mới, cũng không thiết lập những lý thuyết mới và những triết lý mới. Vậy thì tự nhiên bạn sẽ hỏi tôi tại sao tôi đi khắp thế giới, tiếp tục nói chuyện. Tôi sẽ nói cho bạn lý do tại sao tôi làm việc này; không phải bởi vì tôi ham muốn những người theo sau, cũng không phải bởi vì tôi khao khát một nhóm đặc biệt của những môn đồ đặc biệt. Tôi không có những đệ tử, những môn đồ, hoặc trên quả đất hoặc trong lãnh vực của tinh thần.

Cũng không phải bởi vì sự cám dỗ của tiền bạc, cũng không phải bởi vì sự quyến rũ của thích sống một cuộc sống tiện nghi. Nếu tôi muốn sống một cuộc sống tiện nghi tôi sẽ không đến một Trại hay sống trong một quốc gia ẩm ướt! Tôi đang nói thành thật bởi vì tôi mong muốn điều này được khẳng định một lầnmãi mãi. Tôi không muốn những tranh luận trẻ con này tiếp diễn năm này sang năm khác.

Một phóng viên đã phỏng vấn tôi và coi việc đó như một hành động vĩ đại khi giải tán một tổ chức mà trong đó có hàng ngàn và hàng ngàn hội viên. Đối với anh ấy nó là một hành động vĩ đại bởi vì anh ấy đã hỏi: “Anh sẽ làm gì sau đó, anh sẽ sống như thế nào? Anh sẽ không có những người theo sau, người ta sẽ không nghe anh nữa.’ Nếu chỉ có năm người muốn lắng nghe, muốn sống, đưa cuộc đời của họ hướng về sự vĩnh hằng, nó sẽ là quá đủ. Ích lợi gì đâu khi có hàng ngàn người theo sau nhưng không hiểu rõ, nhưng hoàn toàn mê muội trong thành kiến, không muốn cái mới mẻ, nhưng lại thích diễn giải cái mới mẻ cho phù hợp với những cái tôi trì trệ, cằn cỗi của họ! . . .

Suốt mười tám năm, các bạn đã chuẩn bị cho sự kiện này, cho Thầy Thế giới Sắp đến. Suốt mười tám năm các bạn đã tổ chức, các bạn đã tìm kiếm người nào đó mà sẽ trao tặng một thỏa mãn mới cho những quả tim và những cái trí của các bạn, mà sẽ thay đổi toàn cuộc sống của các bạn, mà sẽ cho các bạn một hiểu biết mới, người nào đó mà sẽ nâng các bạn lên một mức độ sống mới, mà sẽ cho các bạn một khích lệ mới, mà có thể giúp các bạn được tự do – và bây giờ hãy nhìn điều gì đang xảy ra! Hãy suy xét, hãy tự-lý luận với các bạn, và khám phá xem niềm tin đó đã làm cho các bạn khác biệt như thế nào – không phải sự khác biệt hời hợt của đeo một huy hiệu, mà quá tầm thường, lố bịch. Một niềm tin như thế đã quét sạch tất cả những thứ thừa thãi của cuộc sống như thế nào? Đó là cách duy nhất để đánh giá: bạn được tự do hơn, cao cả hơn, nguy hiểm hơn đối với mọi xã hội được đặt nền tảng trên những thứ giả dối và những thứ thừa thãi như thế nào? Những hội viên của tổ chức Star này đã trở nên khác biệt như thế nào?

Các bạn đang cần người nào khác để có được sự duy tâm của các bạn, người nào khác để có được sự hạnh phúc của các bạn, người nào khác để có được sự khai sáng của các bạn . . . khi tôi nói hãy tự-nhìn bên trong chính các bạn để có được sự khai sáng, để có được sự vinh quang, để có được sự tinh khiết, và để có được sự không-bại hoại của cái tôi, không có một ai trong các bạn sẵn lòng thực hiện nó. Có lẽ có một ít người, nhưng rất, rất ít người. Vậy là tại sao lại cần có một tổ chức? . . . 

Bạn sử dụng một máy đánh chữ để viết những lá thư, nhưng bạn không đặt nó trên bàn thờtôn sùng nó. Nhưng đó là điều gì bạn đang làm khi những tổ chức trở thành sự quan tâm chính của bạn. ‘Trong nó có bao nhiêu hội viên?’ Đó là câu đầu tiên tôi được hỏi bởi tất cả những phóng viên. Tôi không biết có bao nhiêu. Tôi không quan tâm đến điều đó . . . Bạn quen được bảo rằng bạn đã tiến bộ như thế nào, mức độ tâm linh của bạn như thế nào. Thật trẻ con làm sao! Ai, ngoại trừ chính bạn có thể nói được liệu bạn có bại hoại hay không?

. . . Nhưng những người thực sự khao khát muốn hiểu rõ, đang quan tâm muốn tìm được sự vĩnh hằng, không một khởi đầu và không một kết thúc, bằng sự mãnh liệt vô cùng sẽ đi cùng nhau, sẽ là một nguy hiểm cho mọi thứ thừa thãi, cho những giả dối, cho những ảo tưởng . . . Chúng ta phải tạo ra một tổ chức như thế, và đó là mục đích của tôi. Bởi vì tình bằng hữu chân thật đó – mà dường như bạn không biết – sẽ có sự đồng-cộng tác đúng đắn về phần mỗi người. Và điều này không phải bởi vì uy quyền, không phải bởi vì sự cứu rỗi, nhưng bởi vì bạn thực sự hiểu rõ và thế là có thể sống trong vĩnh hằng. Đây là một việc quan trọng hơn tất cả vui thú, hơn tất cả hy sinh.

Vì vậy đó là những lý do tại sao, sau khi cân nhắc cẩn thận suốt hai năm, tôi đã thực hiện quyết định này. Nó không phải từ một động cơ nhất thời. Tôi đã không bị thuyết phục bởi bất kỳ ai – tôi không bị thuyết phục trong những vấn đề như thế. Suốt hai năm tôi đã suy nghĩ về điều này, từ từ, cẩn thận, kiên nhẫn, và lúc này tôi đã quyết định giải tán Order. Bạn có thể thành lập những tổ chức khác và chờ đợi người nào khác. Tôi không quan tâm điều đó, cũng không quan tâm tạo ra những chuồng cũi mới, những trang trí mới cho những chuồng cũi đó. Quan tâm duy nhất của tôi là giúp con người được tự do, một cách tuyệt đối, không điều kiện.36



[1] Truyền thống trong triết lý phương Đông nói rằng, tại cuối cùng của sự tiến hóa, cái tôi, sau những thay đổi nhiều lần của những chuỗi cuộc đời, rời con sông của sống để hòa mình trong biển cả của Nirvana Niết bàn.

 

[2] Có một bài tường thuật về vụ đính hôn của anh với Helen Knothe trong những tờ báo ở New York, và cha tôi đã thu xếp để chặn đứng một tuyên bố về sự đính hôn của tôi với anh năm 1927.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 34445)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 16897)
Trong các công hạnh đơn giản mà sâu dày và khó thực hiện cho vẹn toàn nhất là hạnh buông xả. Hành giả Phật giáo lấy tâm buông xả làm công hạnh hàng đầu.
(Xem: 23019)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 13081)
Ra khỏi bóng tối - Thích Nữ Diệu Nghiêm dịch
(Xem: 22027)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22280)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 14900)
Kinh Phạm Võng dạy rằng “Người Phật tử nếu lấy tâm từ mà làm việc phóng sinh thì thấy tất cả người nam đều là cha mình, tất cả người nữ đều là mẹ mình.
(Xem: 23655)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 24199)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 23751)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 17186)
Tôi đã lắng nghe Krishnamurti suốt nhiều ngày. Tôi đến những nói chuyện của ông, tham gia những bàn luận, ngẫm nghĩ...
(Xem: 19402)
Chính Ðức Phật đã dạy: “Trong các sự bố thí chỉ có Pháp thícông đức lớn nhất, không có công đức nào sánh bằng” ... Thích Chân Tính
(Xem: 27142)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 14454)
Hiện nay câu hỏi này là một quan tâm chính đối với mọi người, bởi vì khoa học và công nghệ hiện đại đã phơi bày rõ ràng những khả năng xảy ra sự hủy diệt to tát.
(Xem: 13875)
Điều gì cần thiết là một cái trí không bị hành hạ, một cái trí rất rõ ràng. Và một cái trí như thế không thể hiện diện được nếu nó có bất kỳ loại thành kiến nào.
(Xem: 22745)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 14802)
Điều lạ thường nhất về sống của Krishnamurti là những lời tiên tri được nói về anh trong thời thanh niên đã thành hiện thực, tuy nhiên trong một hướng khác hẳn điều gì được mong đợi.
(Xem: 17404)
Để có thể lắng nghe thực sự, người ta nên buông bỏ hay gạt đi tất cả những thành kiến, những định kiến và những hoạt động hàng ngày.
(Xem: 12715)
Nhìn vào toàn chuyển động của sống này như một sự việc; có vẻ đẹp vô cùng trong nó và năng lượng vô hạn; thế là hành động là trọn vẹn và có sự tự do.
(Xem: 13909)
Lúc này chúng ta hãy quan sát điều gì đang thực sự xảy ra trong thế giới; có bạo lực thuộc mọi loại; không chỉ phía bên ngoài mà còn cả trong sự liên hệ lẫn nhau của chúng ta.
(Xem: 10446)
Một cái trí chuyên biệt hóa không bao giờ là một cái trí sáng tạo. Cái trí mà đã tích lũy, mà đã đắm chìm trong hiểu biết, không thể học hành.
(Xem: 14750)
Khi năng lượng không bị hao tán qua sự tẩu thoát, vậy thì năng lượng đó trở thành ngọn lửa của đam mê. Từ bi có nghĩa đam mê cho tất cả. Từ biđam mê cho tất cả.
(Xem: 17235)
Ngài giáng sinh nơi vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), thành đạoBồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya), thuyết bài Pháp đầu tiên tại vườn Lộc Uyển (Sarnath) và nhập Niết Bàn tại Câu Thi Na...
(Xem: 12586)
Chúng tathói quen tạo ra một trừu tượng về sợ hãi, đó là, tạo ra một ý tưởng về sợ hãi. Nhưng chắc chắn, chúng ta không bao giờ lắng nghe tiếng nói của sợ hãi đang kể câu chuyện của nó.
(Xem: 12756)
Có một khác biệt giữa không gian bên ngoài, mà vô giới hạn, và không gian bên trong chúng ta hay không? Hay không có không gian bên trong chúng ta gì cả và chúng ta chỉ biết không gian bên ngoài mà thôi?
(Xem: 10399)
Chúng ta là kết quả của những hành động và những phản ứng của mỗi người; văn minh này là một kết quả tập thể. Không quốc gia hay con người nào tách rời khỏi một người khác...
(Xem: 28753)
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma khích lệ chúng ta hãy triển khai lòng tốttình thương yêu mà Ngài luôn luôn quả quyết là những phẩm tính ấy đều đã có sẵn trong lòng mỗi con người chúng ta.
(Xem: 10756)
Sự liên hệ giữa bạn và tôi, giữa tôi và một người khác, là cấu trúc của xã hội. Đó là, liên hệ là cấu trúc và bản chất của xã hội. Tôi đang đặt vấn đề rất, rất đơn giản.
(Xem: 11169)
Lúc này tôi nghĩ có ba vấn đề chúng ta phải thấu triệt nếu chúng ta muốn hiểu rõ toàn chuyển động của sống. Chúng là thời gian, đau khổ và chết.
(Xem: 16916)
Phật pháp cho trẻ em - Tác giả: Jing Yin và Ken Hudson - Minh họa: Yanfeng Liu - Biên soạnchuyển ngữ: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 15809)
“Đông du” ngày nay đã trở thành một từ quen thuộc. Không chỉ đối với các nhà thám hiểm, khách du lịch, người khảo sát văn hóa, mà cả những nhà khoa học, nhà triết học.
(Xem: 13371)
Khai sáng không lệ thuộc thời gian. Thời gian, ký ức, hồi tưởng, nguyên nhân – chúng không tồn tại; vậy thì bạn có thấu triệt, thấu triệt tổng thể.
(Xem: 12596)
Sự lèo lái của sinh lý học, mặc dù là một phần của điều mà phương Tây chúng ta gọi là “tự nhiên,” từ quan điểm Phật giáo, chính là một phần cơ cấu của luân hồi sinh tử.
(Xem: 11410)
Có lẽ rất xứng đáng khi dùng một ít thời gian cố gắng tìm ra liệu cuộc sống có bất kỳ ý nghĩa nào hay không. Không phải cuộc sống mà người ta sống, bởi vì sự tồn tại hiện nay chẳng có ý nghĩa bao nhiêu.
(Xem: 13063)
Thiền định là hành động mà đến khi cái trí đã mất đi không gian nhỏ xíu của nó. Không gian bao la này mà cái trí, cái tôi, không thể đến được, là tĩnh lặng.
(Xem: 19360)
Lắng nghe là một nghệ thuật không dễ dàng đạt được, nhưng trong nó có vẻ đẹp và hiểu rõ tuyệt vời. Chúng ta lắng nghe với những chiều sâu khác nhau của thân tâm chúng ta...
(Xem: 12299)
Chắc chắn, giáo dục không có ý nghĩa gì cả nếu nó không giúp bạn hiểu rõ sự rộng lớn vô hạn của cuộc sống với tất cả những tinh tế của nó, với vẻ đẹp lạ thường của nó, những đau khổhân hoan của nó.
(Xem: 28708)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 10088)
Chúng ta dường như không bao giờ nhận ra rằng nếu mỗi người chúng ta không thay đổi triệt để trong căn bản thì sẽ không có hòa bình trên quả đất...
(Xem: 21635)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 12825)
Kêu gọi thế giới là tựa của một quyển sách vừa được phát hành tại Pháp (ngày 12 tháng 5 năm 2011), tường thuật lại cuộc tranh đấu bất-bạo-động của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma hơn nửa thế kỷ nay...
(Xem: 17866)
Luật nhân quả không phải là luật riêng có tính cách tôn giáo. Trong vũ trụ, thiên nhiên, mọi sự vật đều chịu luật nhân quả, đó là luật chung của tự nhiên.
(Xem: 26349)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 11747)
Tốt lành chỉ có thể nở hoa trong tự do. Nó không thể nở hoa trong mảnh đất của thuyết phục dưới bất kỳ hình thức nào, cũng không dưới bất kỳ cưỡng bách nào...
(Xem: 10887)
Mọi hình thức thiền định có ý ‎thức không là một sự việc thực sự: nó không bao giờ có thể là. Cố gắngdụng ý khi thiền định không là thiền định.
(Xem: 22826)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 12087)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
(Xem: 10635)
Trước khi thành Thiền sư, Trúc Lâm đại sĩ đã từng làm vua nước Đại Việt. Đó là vua Trần Nhân Tông, người đã từng đẩy lui cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ.
(Xem: 11437)
Tất cả mọi pháp hiện hữu, bắt đầu là cái Tôi, chẳng là gì cả ngoại trừ là những thứ được định danh. Không có các uẩn, không có thân, tâm, ngoại trừ những gì đã được ta quy gán.
(Xem: 11558)
Tư tưởng vị tha mong đạt được giác ngộ vì tất cả chúng sanh là một quan điểm vô cùng kỳ diệu! Khi bạn phát bồ đề tâm, bạn bao gồm tất cả mọi người, mọi loài trong ý tưởng làm lợi lạc cho họ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant