Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thiên Thứ Mười: Dùng Thần Thông Thắng Ngoại Ðạo

09 Tháng Mười Một 201100:00(Xem: 7266)
Thiên Thứ Mười: Dùng Thần Thông Thắng Ngoại Ðạo

LỊCH SỬ ĐỨC PHẬT TỔ CỒ ĐÀM

Maha Thongkham Medhivongs

THIÊN THỨ MƯỜI

DÙNG THẦN THÔNG THẮNG NGOẠI ÐẠO

-ooOoo-

Khi đức Thế Tôn ngự tại Trúc Lâm tịnh xá ở thành Vương Xá. Khi ấy có một ông Trưởng giả muốn đi tắm ở sông Gangà. Vì sợ có sự tai nạn bất ngờ nên ông cho người nhà giăng lưới để ngừa loài thủy tộc đến làm hại.

Trên giòng sông Gangà có một rừng toàn cây trầm, khi trời mưa to nước xói góc cây trầm gần bên bờ sông nên cây trầm ngã xuống sông, lại bị nước lũ trôi đi, khi trôi bị chạm vào đá nên gãy ra làm nhiều khúc to nhỏ. Có một khúc lõi bị nước trôi và va chạm vào đá nhiều lần nên trở thành khúc gỗ tròn màu đỏ thơm thật là quí. Khúc trầm tròn ấy lại trôi dính vào lưới của ông Trưởng giả đang tắm, người nhà ông vớt lên đem đến cho ông. Ông hỏi: Vật chi đó?

Người nhà đáp: Một khúc lõi cây trầm đỏ.

Ông thấy khúc lõi trầm to bằng cái bát thật đẹp, thật một khúc trầm quí. Vị Trưởng giả nầy không thuộc về tôn giáo nào cả, ông mới nghĩ rằng: Ta được khúc trầm rất là quí giá nầy vậy ta làm ra vật gì cho thật đẹp để chơi. Ông lại nghĩ: Ờ phải rồi, hiện nay có rất nhiều tôn giáo, những ông giáo chủ ấy đều tự xưng: Ta đây là A-la-hán. Nhưng riêng ta thì ta không biết ai là A-la-hán? Ai không phải là A-la-hán? Vậy ta thuê thợ tiện khúc trầm nầy ra một cái bát rồi cột trên ngọn tre cao sáu mươi hắc tay, và nói rằng: Vị nào có thể bay lên lấy được bát ấy ta tin rằng vị ấy là A-la-hán. Ta cùng tất cả quyến thuộc và người trong gia đình ta qui y theo vị ấy.

Rồi trở về nhà ông liền làm theo ý định của ông. Sau khi treo bát xong, ông cho người nhà của ông đi truyền bá mọi nơi theo ý ông đã định rằng: Vị nào là A-la-hán hãy bay lên lấy bát thì ông Trưởng giả sẽ qui y theo vị ấy.

Trong thời kỳ ấy tại Vương Xá thành có sáu tôn giáo lớn nhứt gọi là Lục Sư hay là Lục Tổ.

Tên sáu vị ấy là:

1) PURÀNAKASSAPA .
2) MAKKHALIGOSANA .
3) AJITAKESAKAMBALA .
4) SANJAYAVELATTHAPUTTA .
5) PAKUDDHAKACCAYANA .
6) NIGANTHANÀTAPUTTA .

Trong sáu vị ấy, người đưa đệ tử đến làm môi giới trước nhứt là ông Purànakassapa; người đệ tử ấy nói với ông Trưởng giả rằng: Bát ấy thật là xứng đáng đến đức giáo chủ của chúng tôi.

Ông Trưởng giả trả lời rất khiêm tốn rằng: Xin mời Ngài tự tiện đến thâu lấy mà dùng đó là nguyện vọng của tôi.

Theo sau đó mỗi ông giáo chủ đều đưa người đến làm môi giới để xin bát ấy nhưng không vị nào đắc kỳ sở nguyện. Ðến ngày thứ sáu ông Niganthanàtaputta cho đệ tử đến nói: Ông Trưởng giả, tốt hơn ông nên vui lòng trao bát ấy đến giáo chủ tôi, đừng để vì một cái bát không đáng giá là bao mà phải dùng đến thần thông coi không đẹp, ông Trưởng giả cũng không nhận lời và vẫn từ chối một cách nhã nhặn như trước.

Khi ấy Niganthanàtaputta mới bàn với đệ tử rằng: Khi ta đến nhà ông Trưởng giả, ta giả bộ sắp bay đi lấy bát, các ngươi coi, nếu ông Trưởng giả ấy không bằng lòng cho thì các người hãy níu ta lại và nói rằng: Xin sư phụ đừng vì cái bát cỏn con ấy mà dùng thần thông tỏ ra mình là bực A-la-hán giữa quần chúng làm gì.

Dạy đệ tử xong ông Niganthanàtaputta đến nhà Trưởng giả bảo: Ông Trưởng giả, ông nên dâng cho bần đạo cái bát ấy đi. Ông Trưởng giả không ưng thuận. Ông ta giả vờ như sắp bay đi lấy, kế đệ tử kéo lại khuyên xin đừng bay. Ông liền nói ông Trưởng giả rằng: Sở dĩ mà ta không bay đi lấy vì đệ tử ta yêu cầu, vậy ngươi vui lòng dâng cho ta đi.

Ông Trưởng giả cũng một mực từ chối. Bọn ngoại đạo dùng trăm mưu ngàn kế nhưng không sao gạt ông Trưởng giả để đoạt lấy cái bát ấy được. Ðến ngày thứ bảy, có hai vị đại A-la-hán là Ngài Mục Kiền Liên và Ngài Pindolabhàradvàja vào thành khất thực. Hai Ngài đang đứng sửa lại y phục cho nghiêm trang để vào thành khất thực gần bên tảng đá to ở gần cửa thành.

Hai Ngài được nghe người trong thành bàn với nhau rằng: Các bạn có thấy không, sáu vị giáo chủ của sáu tôn giáo lớn trong Vương Xá thành thườn khoe rằng: Ta là A-la-hán, nhưng khi ông Trưởng giả treo cái bát bằng trầm đỏ và tuyên bố rằng: Vị nào là A-la-hán bay đi lấy. Ðến hôm nay là bảy ngày rồi chúng ta mới thấy rõ rằng, không có vị nào là A-la-hán trong cõi đời nầy cả.

Ðại Ðức Mục Kiền Liên liền nói với Ðại Ðức Pindolabhàradvàja rằng: Pháp đệ ơi, ông có nghe những lời của nhân dân trong thành đang bàn đến không, dường như họ không coi Phật giáo vào đâu hết, không chút kính nể, vậy Pháp đệ là người có nhiều thần thông cũng nên bay đi lấy bát ấy đi.

- Thưa Pháp huynh, Pháp huynh là người được đức Thế Tôn khen và liệt vào hàng thần thông đệ nhứt trong hàng đại đệ tử, vậy sư huynh nên đi thâu lấy bát ấy. Bằng như sư huynh không thích thì đệ xin vâng lời sư huynh dạy vậy.

- Thôi, Pháp đệ hãy đi lấy đi.

Khi Ðại Ðức Mục Kiền Liên cho phép thì Ðại Ðức Pindolabhàradvàja , liền nhập đại định là nhân dùng thần thông, xong Ngài bay lên trên tảng đá to đứng nơi ấy rồi Ngài và tảng đá bay lên cao ba dặm tảng đá ấy dính lủng lẳng dưới chơn Ngài xem như tảng đá tự không bay lên, giống như một khối bông gòn bay lơ lửng trên không. Ngài bay quanh thành Vương Xá ba vòng. Tất cả dân chúng thấy tảng đá bay lơ lửng trên không lấy làm kinh sợ vì sợ tảng đá rớt xuống thì còn gì tánh mạng. Có người chạy trốn kẻ thì lấy đồ che đầu. Ðại Ðức biết vậy nên Ngài hiện ra cho dân chúng thấy Ngài để bớt sự kinh động.

Lúc ấy dân chúng trông thấy Ngài mới kêu la lên rằng: Xin Ngài Ðại Ðức hãy giữ lấy tảng đá cho chắc, đừng để rớt xuống thì chúng tôi chết hết.

Ðại Ðức thấy dân chúng kinh sợ Ngài liền dùng hai ngón chân đẩy tảng đá bay về rớt xuống y như cũ, còn Ngài thì bay đi lấy bát. Ông Trưởng giả trông thấy Ngài Ðại Ðức làm được điều mình đã mong muốn nên lấy làm trong sạch với Ngài. Liền quì xuống đảnh lễ Ngài rất cung kính, rồi cầu xin Ngài Ðại Ðức đến nhà ông. Khi Ðại Ðức đã vào nhà ông, ông liền hối người nhà đem cao lương mỹ vị để đầy bát trầm ấy và dâng đến tay Ngài. Ngài thọ lãnh xong liền về chùa.

Những người bận lo việc đồng áng và không trông thấy Ðại Ðức dùng thần thông, khi về nhà nghe thuật lại họ rất tiếc, liền rủ nhau vào chùa tìm Ðại Ðức kêu la ầm lên rằng: Xin Ðại Ðức từ bi dùng thần thông cho chúng tôi được trông thấy với nào.

Ðại Ðức không thể ở yên được nên Ngài phải dùng thần thông như ban sáng cho người xem xong mới đư?c yên không thì bị huyên náo lên.

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn nghe tiếng reo hò hoan hô của dân chúng, Ngài mới phán hỏi Ðại Ðức Ananda rằng: Chuyện chi mà dân chúng kêu la ầm ỹ như vậy?

- Bạch hóa đức Thế Tôn! Ðại Ðức Pindolabhàradvàja dùng thần thông bay đi lấy bát cây trầm đỏ của vị Trưởng giả trong thành nên dân chúng hoan hô như thế?

- Hãy gọi ông Pindolabhàradvàja vào đây cho Như Lai.

Khi Ðại Ðức vào hầu. Ðức Thế Tôn hỏi Ngài liền bạch rõ mọi việc. Ðức Thế Tôn quở Ngài rằng: Tại sao ngươi làm chuyện không nên làm như vậy. Rồi đức Thế Tôn dạy đem cái bát ấy ra đâm cho nhuyễn để trị bịnh đau mắt. Ðức Thế Tôn liền cấm không cho chư đệ tử dùng thần thông như vậy nữa.

Bọn ngoại đạo được nghe tin đức Thế Tôn cấm không cho đệ tử dùng thần thông như vậy nữa, nên mới cho người đi các nơi nói với dân chúng rằng: Sở dĩchúng ta không dùng thần thông đi lấy bát, vì chúng ta muốn che đặc ân cao thượng của bực A-la-hán. Nay đệ tử của thầy Sa môn Cồ Ðàm dùng thần thông để khoe khoang công đức tối cao với dân chúng cũng vì cái bát cây không có giá trị là bao. Thầy Sa môn Cồ Ðàm thật là giảo quyệt nên đã dạy đập bỏ bát và ra điều học cấm đệ tử không cho dùng thần thông như vậy nữa. Nay chúng ta sẽ dùng thần thông thi đua với thầy Sa môn Cồ Ðàm.

Ðức vua A Xà Thế nghe chuyện bọn ngoại đạo muốn thi đua thần thông với đức Thế Tôn, Ngài mới vào hầu đức Thế Tôn và bạch hỏi rằng: Trẫm trộm nghe đức Thế Tôn đã chế ra điều học cấm không cho chư đệ tử dụng thần thông phải chăng?

- Tâu Ðại vương đúng vậy.

- Hiện giờ bọn ngoại đạo nói rằng: Bọn chúng sẽ dùng thần thông tranh tài với đức Thế Tôn. Vậy đức Thế Tôn xử trí cách nào cho ổn?

- Tâu Ðại vương, nếu bọn ngoại đạo muốn thi tài với Như Lai thì buộc lòng Như Lai cũng phải dùng chút phép mọn vậy.

- Bạch đức Thế Tôn! Có phải Ngài đã ra điều học cấm rồi; làm sao Ngài dùng thần thông được?

- Tâu Ðại vương, Như Lai ra luật cấm đệ tử, chớ Như Lai nào cấm Như Lai đâu.

- Bạch đức Thế Tôn! Vậy đức Thế Tôn ra điều học cấm kẻ khác, còn chính Ngài không bị cấm có phải vậy không?

- Tâu Ðại vương, vậy Như Lai xin hỏi Ðại vương trong thành Vương Xá nầy có vườn thượng uyển hay không?

- Bạch đức Thế Tôn có.

- Vậy dân chúng có thể vào vườn thượng uyển nghỉ mát và hái hoa ăn trái, Ðại Vương xử trí thế nào?

- Bạch đức Thế Tôn! Trẫm sẽ trừng phạt kẻ ấy.

- Tâu Ðại vương, chính Ðại vương dùng vật thực ở vườn thượng uyển thì vô tội vì lẽ Ngài là chúa tể của thiên hạ. Cũng như Như Lai cũng có oai đức trùm tam giới thì cũng không có lỗi gì đối với các điều học ấy. Vì vậy nên Như Lai vẫn có quyền dùng thần thông đối với bọn ngoại đạo đòi hỏi tranh tài với Như Lai.

Khi bọn ngoại đạo nghe rằng: Ðức Thế Tôn ra điều học cấm các hàng đệ tử mà thôi. Nhưng chính Ngài không cấm Ngài. Và một lý do khác hơn là chính họ kêu gọi và thách đức Thế Tôn, nên khi họ nghe chính đức Thế Tôn sẽ dùng thần thông, thì càng lo sợ hơn nhiều. Vì vậy bọn ngoại đạo càng lo thế để đối phó lại, hoặc làm thế nào thắng cho được Phật. Khi ấy mới bàn với nhau rằng: Nghe nói rằng: Chính ông Sa môn Cồ Ðàm sẽ tranh tài với chúng ta, vì ông ấy đã cấm hết chư đệ tử. Vậy chúng ta phải làm sao?

Sau đó đức vua A Xà Thế hỏi đức Thế Tôn rằng: Vậy đức Thế Tôn định ngày tháng nào Ngài mới dùng thần thông?

- Kể từ ngày nay đi còn bốn tháng nữa đúng vào rằm tháng sáu (Asàlaha) gần thành Thất La Phiệt (Sàvatthì).

Có câu hỏi: Tại sao đức Thế Tôn lại dùng thần thông nơi quá xa?

Ðáp: Vì gần thành Sàvatthì (Thất La Phiệt) là nơi mà các vị Chánh đẳng Chánh giác khi xưa thắng ngoại đạo. Hơn nữa Ngài muốn dùng thần thông nơi xa và thời gian còn lâu để có cơ hội cho tín đồ và dân chúng hội họp lại dễ hơn.

Bọn ngoại đạo nghe đức Thế Tôn chỉ địa điểm và thời gian rõ mới hội nhau lại bàn rằng: Chúng ta phải theo riết bên thầy Cồ Ðàm. Nếu hàng đại chúng có ai hỏi thì bảo họ rằng: Chúng ta dùng thần thông thi tài với thầy Cồ Ðàm, sợ thầy Cồ Ðàm trốn nên chúng ta phải đuổi theo sát bên.

Khi đức Thế Tôn vào Vương Xá thành khất thực xong. Ngài liền đi về thành Thất La Phiệt. Bọn ngoại đạo y theo chương trình là theo sát bên Phật.

Nơi thành Thất La Phiệt bọn ngoại đạo liền cổ động tín đồ ngoại đạo cúng dường vào cho nhiều để làm nơi dùng thần thông thắng Phật. Bọn ngoại đạo thâu được một số tiền khổng lồ, làm được một cái đài rất cao, mỗi cây cột trang điểm bằng một thứ đèn lạ trông thật đẹp mắt, rồi nói với dân chúng rằng: Chúng ta sẽ dùng thần thông nơi đây, trên đài nầy.

Ðức vua Ba Tư Nặc được tin rằng: Ðức Thế Tôn đã về tới thành Thất La Phiệt ngự tại Kỳ Viên tịnh xá, Ngài liền ngự đến hầu và bạch hỏi đức Thế Tôn rằng: Bạch đức Thế Tôn, bọn ngoại đạo đã tạo nên đài cao để làm nơi dùng thần thông thắng đức Thế Tôn. Trẫm xin lập ra một cái đài cao hơn để dâng cúng đức Thế Tôn, Ngài sẽ dùng thần thông trên đài ấy.

Ðức Thế Tôn đáp: Xin Ðại vương đừng lo âu điều ấy, đã có người làm đài ấy cho Như Lai rồi.

Bạch đức Thế Tôn, ngoài trẫm ra, vậy ai là người có thể làm được đài ấy để Ngài ngự?

- Tâu Ðại vương, người ấy là đức Thiên Vương Ðế Thích.

- Bạch đức Thế Tôn, Ngài sẽ dùng thần thông ở nơi nào?

- Như Lai sẽ dùng thần thông dưới cội Xoài.

Bọn ngoại đạo nghe được tin ấy lấy làm mừng bèn cho nhau hay và dạy các đệ tử phải đi mọi nơi để mua và đốn hết tất cả xoài trong vòng thành Thất La Phiệt, mặc dầu cây xoài ấy mới mọc.

Vào ngày rằm tháng sáu Ngài ngự vào thành nhưng khi đi chưa đến thành thì có người làm vườn thượng uyển tên là Ganda trông thấy trái xoài chín vàng trên cây liền hái. Tâm người làm vườn nghĩ nên đem vào dâng cho đức vua. Khi vừa đến nửa đường lại gặp đức Phật, y mới nghĩ rằng: Nếu ta đem vào dâng cho đức vua, thì ta chỉ được thưởng tám hay mười sáu đồng, số tiền ấy nuôi gia đình ta được bao nhiêu ngày? Nếu ta cúng dường đến bực Chánh đẳng Chánh giác thì ta sẽ được lợi íchbình an vô cùng tận. Sau khi nghĩ vậy liền đem đến dâng cho đức Thế Tôn.

Ðức Thế Tôn day lại ngó Ðại Ðức Ananda, Ngài Ananda biết ý Phật muốn dạy gì, Ngài liền đem bát đến dâng Phật. Ðức Thế Tôn cầm bát thọ lãnh trái xoài, rồi Ngài tỏ vẻ muốn ngồi nơi ấy. Ðại Ðức Ananda liền trải tọa cụ, đức Thế Tôn liền ngự trên tọa cụ bên lề đường, Ðại Ðức Ananda liền múc nước ép làm nước xoài xong dâng đến tay Ngài, khi thọ thực xong đức Thế Tôn liền dạy người làm vườn rằng: Ngươi hãy đào đất lên và đem hột xoài nầy đi trồng. Người làm vườn vâng lời làm theo, đức Thế Tôn liền rửa tay Ngài nơi trồng cây xoài. Lập tức hột xoài nứt mộng và trong chốc lát lên cây to cao năm mươi hắc tay, cành lá sum suê chia ra bốn phía còn ngọn thì lên cao, trái không thiếu chi.

Nơi cội xoài có nhiều tín đồ đến lượm xoài chín đợi chư Tỳ khưu khất thực đến dâng cúng. Ðức vua Ba Tư Nặc hay tin rằng: Có cây xoài mọc gần vườn thượng uyển. Ngài sợ bọn ngoại đạo đốn đi nên cho quan quân đến canh chừng không cho ai đến xâm phạm cây xoài. Ðức vua cũng biết rằng: Có cây xoài như thế ấy là do nơi người làm vườn của Ngài hái xoài trong vườn thượng uyển dâng cúng đến Phật, mà cũng do nơi người làm vườn trồng cây xoài ấy. Nên Ngài cho tên cây Xoài ấy là Gandamànava. (Có nghĩa là cây xoài của người thanh niên tên Ganda ). Những kẻ côn đồ trong Vương Xá thành cũng đến nơi ấy để lượm xoài ăn; nhờ vậy nên mới biết mùi vị của xoài thật là ngon, họ liền nổi giận chưởi mắng bọn ngoại đạo rằng: Bọn ngoại đạo thật là đê tiện, chỉ nghe rằng: Ông Sa môn Cồ Ðàm sẽ dùng thần thông trên cây xoài liền cho người đi đốn hết những cây xoài có trong thành Vương Xá, thật là uổng những cây có mùi thơm chất ngọt ngon như thế nầy. Nếu không có cây xoài Gandamànava nầy mọc lên thì còn gì giống trái ngọt ngon như thế nầy. Khi ăn xong liền lấy những hột xoài tìm những người ngoại đạo liệng vào mặt.

Nói về đức Thiên Vương Ðế Thích truyền Thần gió tên là Vàtavalàhaka rằng: Ngươi hãy hóa gió lớn ở nơi nào có lầu đài của bọn ngoại đạo tạo ra để dùng thần thông đấu với Phật, ngươi hãy làm cho đền đài ấy sập hết. Nhưng không nên làm kinh động đến một lương dân nào.

Rồi Ngài liền gọi Nhựt Thần đến bảo rằng: Ngươi hãy thiêu đốt bọn ngoại đạo thật nóng, làm cho bọn ấy như đang bị trong lò lửa, nhưng cấm ngươi không thể xúc phạm đến người nào không có ác tâm chống Phật. Ðừng để cho bọn ấy nói khoác rằng: Phật sợ chúng chạy trốn nên chúng theo để dùng thần thông thắng Phật.

Ngài lại dạy thêm vị Thần gió rằng: Ngươi làm cho bụi bay mịt mờ và cứ bám vào mình của bọn ngoại đạo, nhưng những người không phải ngoại đạo đều được vô sự. Những người ngoại đạo bị nào là gió nào là bụi bay áp vào mình và nóng bức chịu không nổi.

Khi ấy có một bác nông dân đệ tử của ông Purànakassapa nghĩ rằng: Ta nên đến nơi đức giáo chủ của ta đang dùng thần thông đấu cùng thầy Sa môn Cồ Ðàm. Bác nông dân ấy tay cầm một sợi dây cột bò và tay thì cầm một nồi cơm. Khi vừa gặp ông Purànakassapa đang bị gió cuốn bụi bám đầy vào mình phần thì bị nóng như thiêu đốt từ xa chạy đến, anh ta nói: Tôi đến đây để xem thần thông của thầy; vậy thầy chạy đâu đây.

Ông Purànakassapa nói: Ngươi hãy trao khoanh dây và cái nồi đây cho ta đã.

Bác nông phu lật đật đưa cho ông. Ông ti?p lấy dây và nồi cột hai vật ấy vào một đầu dây còn một đầu cột vào cổ rồi chạy thẳng ra bờ sông nhảy xuống sông tự tử.

Lúc ấy có rất nhiều dân chúng ở xứ Ma Kiệt Ðà, người thành Thất La Phiệt đến coi đứng đông đặc cả ba do tuần (mỗi do tuần mười sáu cây số).

Xế chiều lại, đức Thế Tôn ngự ra và nghĩ rằng: Giờ nầy vừa với thời giờ ta dùng thần thông rồi. Khi ấy có một bà tín nữ tên Gaharanìnandamàtà là người đã đắc A na hàm quả đến đảnh lễ Phật và bạch Phật rằng:

- Bạch hóa đức Thế Tôn, khi đức Từ phụ có đứa con gái như con đây, thì Ngài cần gì phải nhọc sức dùng thần thông với bọn tà kiến ngoại đạo nầy, con xin đức Thế Tôn giao nhiệm vụ ấy cho con thi hành.

Ðức Thế Tôn hỏi:

- Ngươi sẽ làm cách nào?

Bà liền bạch:

- Bạch đức Thế Tôn, con sẽ biến vũ trụ nầy thành nước nhưng vạn vật vẫn bình an rồi con lặn trong nước ấy, sau con liền nổi lên trong bốn hướng, xong con hiện ra giữa địa cầu để người người đều trông thấy con, rồi họ sẽ hỏi rằng: Người là ai? Con đáp: Ta là nàng Nandamàtà đại tín nữ. Khi ấy người người sẽ bảo nhau rằng: Chỉ là một người tín nữ mà còn có thần thông như vậy; thì còn nói làm sao được một vị Chánh đẳng Chánh giác, có gì lường được thần thông của Ngài. Khi ấy bọn ngoại đạo không bao giờ dám thách thi tài cùng đức Thế Tôn nữa.

Ðức Thế Tôn dạy:

- Nầy tín nữ, Như Lai biết rằng: Cô có thể dùng thần thông như lời nói được, nhưng đây không phải là việc làm của hàng đệ tử.

Khi đức Thế Tôn không nhận lời của bà tín nữ. Khi ấy có ông thiện nam tên Culapintaka (em của Trưởng giả Cấp Cô Ðộc) người đắc A na hàm quả cũng ra xin thay Phật để dạy bọn ngoại đạo. Ðức Thế Tôn không nhận lời.

Lại có bà Sa di ni bảy tuổi cũng xin ra dùng thần thông đấu với ngoại đạo nhưng đức Thế Tôn cũng không nhận lời. Ðến ông Sa di tên Cunda ra xin phép Phật để ông thay Ngài đấu phép cùng ngoại đạo nhưng đức Thế Tôn cũng chẳng nhận lời. Kế là bà Tỳ khưu ni tên là Upalavannà xin phép đức Thế Tôn để làm tròn nhiệm vụ của người đệ tử, đức Thế Tôn cũng không nhận lời. Lần lượt đến Ðại Ðức Mục Kiền Liên, Xá Lợi Phất cùng tám mươi vị đại đệ tử, đức Thế Tôn không nhận lời một vị nào. Ngài dạy rằng: Công việc hôm nay không phải chuyện của chư Thinh Văn đệ tử, mà là một việc riêng của chư Phật trong quá khứ cũng như vị lai đều có một lần phải dùng thần thông thắng người ngoại đạo, để cho thấy rõ oai đứcthần thông Yamaka (Thần thông nầy gọi là có đôi, vì phải dùng hai phép lạ trong một lúc, ý nói phải nhập định một lần hai đề mục, đây chỉ có đức Phật mới hành đến độ cao thượng như vậy).

Sau đó đức Thế Tôn tự hành lấy. Ngài hóa ra một cái cầu ngọc bắc từ thế giới nầy đến trăm ngàn thế giới khác, lấy ngọn núi Tu Di sơn làm cột cầu, đó là con đường của Ngài đi kinh hành; Ngài dùng bầu trời đầy trăng, sao làm trần nhà; đức Thế Tôn liền ngự trên đường kinh hành bằng ngọc ấy và Ngài đi kinh hành rồi Ngài hiện ra một vị đi kinh hành một vị vấn đạo và một vị đáp. Một vị nằm nghỉ một vị tham thiền, Ngài lại dùng tay rờ mặt trờimặt trăng, Ngài biến hóa ra nhiều cách khác nhau mà chư đại đệ tử không vị nào có thể hành theo được, và khi Ngài đứng thân hình Ngài chia ra làm hai bên khác nhau là một bên ra lửa còn một bên ra nước, xong thân trên ra nước thân dưới ra lửa; hay một bên có hào quang đỏ, một bên có hào quang xanh v.v... Những phương pháp nầy không có vị A-la-hán nào hiện được vì trong một Sát na phải dùng liền hai đề mục.

Khi ấy hào quang Ngài chiếu sáng khắp Sa bà thế giới và thấu đến cõi trời Phạm Thiên, chư Thiên biết đức Thế Tôn đã dùng thần thông thắng ngoại đạo nên họp nhau lại cỏi này, kẻ ôm hoa người mang lọng, phướn v.v... để che cho Ngài. Trong một đời đức Thế Tôn chỉ một lần nầy thôi nên chư Thiên không bỏ qua họp lại đông vô số kể. Chư Thiên được hội cúng dường nên đua nhau cúng dường đủ mọi thứ.

Lúc bấy giờ đức Thế Tôn đứng day mặt về hướng Ðông để xem coi chúng sanh nghe pháp nào mới hợp và đắc đạo quả. Ðức Thế Tôn tùy thời thuyết pháp người và chư Thiên đắc quả nhiều không sao kể hết.

Riêng về các vị giáo chủ ngoại đạo cũng đang bị gió, bụi và sức nóng của Nhựt Thần thiêu đốt rủ nhau chạy trốn. Thật là một cảnh thảm hại cho các vị ấy cũng vì lòng ganh tị, ngoan cốham lợi mà hại cuộc đời.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 3884)
Tư Tưởng Phật Giáo Trong Thi Ca Nguyễn Du - HT Thích Như Điển
(Xem: 3062)
Phật Giáo Việt Nam Tại Châu Âu - HT Thích Như Điển
(Xem: 6864)
Tư Tưởng Phật Giáo Trong Văn Học Thời Trần - Tác giả: Nguyễn Vĩnh Thượng
(Xem: 5581)
Emily Elizabeth Dickison là nhà thơ lớn của Mỹ trong thế kỷ thứ 19. Bà sống phần lớn cuộc đời trong cô độc.
(Xem: 3886)
Ni Giới Việt Nam Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ - Thích Nữ Giới Hương. Hồng Đức Publishing. 2020
(Xem: 3050)
Tác phẩm “Xây dựng hạnh phúc gia đình” của Hòa thượng Thích Thắng Hoan là cẩm nang hướng dẫn xây dựng hạnh phúc cho người Phật tử tại gia.
(Xem: 12007)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 5112)
Ai đã truyền Việt Nam Phật Giáo qua Trung Quốc: Khương Tăng Hội, người Việt Nam. Vào năm nào: năm 247 tây lịch.
(Xem: 3828)
Tư tưởng Phật giáo trong văn học thời Lý bản PDF - Nguyễn Vĩnh Thượng
(Xem: 9099)
Thầy Tuệ Sỹ Là Viên Ngọc Quý Của Phật Giáo và Của Việt Nam - Nguyễn Hiền Đức
(Xem: 7319)
Dưới Bóng Đa Chùa Viên Giác - hồi ký về một ngôi chùa đã đi vào lịch sử Phật giáo tỉnh Quảng Nam. Viên Giác Tùng Thư 2019 - Nhà xuất bản Liên Phật Hội
(Xem: 27059)
Tác phẩm Trí Quang Tự Truyện bản pdf và bài viết "Đọc “Trí Quang Tự Truyện” của Thầy Thích Trí Quang" của Trần Bình Nam
(Xem: 5868)
Tôi đặt bút bắt đầu viết "Lời Vào Sách" nầy đúng vào lúc 7 giờ sáng ngày 21 tháng 6 năm 1995 sau khi tụng một thời kinh Lăng Nghiêmtọa thiền tại Chánh điện.
(Xem: 5587)
Có lẽ đây cũng là một trong những viễn ảnh của tâm thức và mong rằng những trang sách tiếp theo sẽ phơi bày hết mọi khía cạnh của vấn đề, để độc giả có một cái nhìn tổng quát hơn.
(Xem: 6096)
Ai trói buộc mình? Không biết có bao giờ chúng ta tự đặt câu hỏi đó với chúng ta chưa? Đến chùa học pháp hay đi tu chỉ để cầu giải thoát. Mục đích tu hoặc xuất gia là cầu giải thoát sinh tử. Giải thoát có nghĩa là mở, mở trói ra. Cầu giải thoát là đang bị trói. Nhưng ai trói mình, cái gì trói mình? Khi biết mối manh mới mở được.
(Xem: 5570)
Sống Trong Từng Sát Naphương pháp thực tập sống tỉnh thức, sống và ý thức về sự sống trong từng mỗi phút giây. Đây là phương thức tu tập dựa trên tinh thần Kinh Bốn Lãnh Vực Quán Niệm.
(Xem: 5441)
Nguyên bản: How to practice the way to a meaningful life. Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma. Anh dịch: Jeffrey Hopkins, Ph. D. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 7745)
Mối Tơ Vương của Huyền Trân Công Chúa (Phóng tác lịch sử tiểu thuyết vào cuối đời Lý đầu đời Trần) HT Thích Như Điển
(Xem: 4745)
Nguyệt San Chánh Pháp Số 84 Tháng 11/2018
(Xem: 12013)
Nhẫn nhục là thù diệu nhất vì người con Phật thực hành hạnh nhẫn nhục thành thục, thì có thể trừ được sân tâm và hại tâm, là nhân tố quan trọng để hành giả thành tựu từ tâm giải thoátbi tâm giải thoát.
(Xem: 21804)
Tác giả: Diệu Hạnh Giao Trinh sưu tầm và kể chuyện, Nguyễn Minh Tiến hiệu đínhgiới thiệu
(Xem: 6469)
Cảm Đức Từ Bi - tác giả Huỳnh Kim Quang
(Xem: 7420)
Một bản dịch về Thiền Nhật Bản vừa ấn hành tuần này. Sách nhan đề “Thiền Lâm Tế Nhật Bản” của tác giả Matsubara Taidoo. Bản Việt dịch do Hòa Thượng Thích Như Điển thực hiện.
(Xem: 6696)
Tuyển tập “Bát Cơm Hương Tích” của Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng là một phần lớn của đời tác giả, ghi lại những gì Thầy mắt thấy tai nghe một thời và rồi nhớ lại...
(Xem: 6268)
Quyển sách "Hãy làm một cuộc cách mạng" trên đây của Đức Đạt-lai Lạt-ma khởi sự được thành hình từ một cuộc phỏng vấn mà Ngài đã dành riêng cho một đệ tử thân tín là bà Sofia Stril-Rever vào ngày 3 tháng giêng năm 2017.
(Xem: 8525)
THIỀN QUÁN VỀ SỐNG VÀ CHẾT - Cẩm Nang Hướng Dẫn Thực Hành - The Zen of Living and Dying A Practical and Spiritual Guide
(Xem: 6046)
Mùa An Cư Kiết Hạ năm 2016 nầy tôi bắt đầu viết tác phẩm thứ 67 để sang năm 2017 xuất bản với nhan đề là "Nước Mỹ bao lần đi và bao lần đến"
(Xem: 5691)
Người đứng mãi giữa lòng sông nhuộm nắng, Kể chuyện gì nơi ngày cũ xa xưa, Con bướm nhỏ đi về trong cánh mỏng, Nhưng về đâu một chiếc lá xa mùa (Tuệ Sỹ)
(Xem: 14172)
TĂNG GIÀ THỜI ĐỨC PHẬT Thích Chơn Thiện Nhà xuất bản Phương Đông
(Xem: 20173)
Người học Phật có được một tài liệu đầy đủ, chính xác, đáng tin cậy, dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhớ và dễ tra cứu khi cần...
(Xem: 6849)
Tác phẩm nầy chỉ gởi đến những ai chưa một lần đến Mỹ; hoặc cho những ai đã ở Mỹ lâu năm; nhưng chưa một lần đến California...
(Xem: 6821)
Từ Mảnh Đất Tâm - Huỳnh Kim Quang
(Xem: 6383)
Một năm lại sắp trôi qua với những vết tích điêu tàn, khổ nạn để lại trên khắp trái đất. Nhìn lại, chúng ta không khỏi giật mình, và chạnh lòng thương tưởng
(Xem: 6476)
Chung trà cuối năm uống qua ngày đầu năm. Sương lạnh buổi sớm len vào cửa sổ. Trầm hương lãng đãng quyện nơi thư phòng..
(Xem: 6006)
Một năm lại sắp trôi qua với những vết tích điêu tàn, khổ nạn để lại trên khắp trái đất. Nhìn lại, chúng ta không khỏi giật mình, và chạnh lòng thương tưởng
(Xem: 7397)
Nước lũ từ thượng nguồn cuồn cuộn đổ về, lại thêm nước từ đập thủy điện ồ ạt xả ra. Dân không được báo trước.
(Xem: 7364)
Trải hơn 25 thế kỷ, Chánh Pháp của Phật vẫn được tuyên dươnglưu truyền bởi hàng đệ tử xuất gia lẫn tại gia, đem lại giải thoátgiác ngộ cho...
(Xem: 8492)
Là người mới bắt đầu học Phật hoặc đã học Phật nhưng chưa thấm nhuần Phật pháp chân chính, chúng tôi biên soạn...
(Xem: 6453)
Hôm nay là ngày 10 tháng 6 năm 2015, tại thư phòng chùa Viên Giác Hannover, Đức Quốc, tôi bắt đầu viết tác phẩm thứ 65 của mình...
(Xem: 6848)
Bắt đầu vào hạ, trời nóng bức suốt mấy ngày liền. Bãi biển đông người, nhộn nhịp già trẻ lớn bé. Những chiếc...
(Xem: 10459)
Phật giáo ra đời từ một trong những cái nôi của nền văn minh nhân loại - Ấn Độ - và nhanh chóng phổ biến tại các nước phương Đông...
(Xem: 19784)
Trong tập sách nhỏ này tôi đã bàn đến hầu hết những gì mọi người đều công nhậngiáo lý tinh yếu và căn bản của Đức Phật... Con Đường Thoát Khổ - Đại đức W. Rahula; Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 30166)
Tôi cảm động, vì sống trong đạo giải thoát tôi đã tiếp nhận được một thứ tình thiêng liêng, trong sáng; một thứ tình êm nhẹ thanh thoát đượm ngát hương vị lý tưởng...
(Xem: 16166)
Tập sách do Minh Thiện và Diệu Xuân biên soạn
(Xem: 19565)
Phật GiáoVũ Trụ Quan (PDF) - Tác giả: Lê Huy Trứ
(Xem: 11044)
Hạnh Mong Cầu (sách PDF) - Lê Huy Trứ
(Xem: 14287)
Đọc “Dấu Thời Gian” không phải là đọc sự tư duy sáng tạo mà là đọc những chứng tích lịch sử thời đại, chứng nhân cùng những tâm tình được khơi dậy trong lòng tác giả xuyên qua những chặng đường thời gian...
(Xem: 7741)
Báo Chánh Pháp Số 48 Tháng 11/2015
(Xem: 10459)
Nguyệt san Chánh Pháp Tháng 10 năm 2015
(Xem: 7915)
Báo Chánh Pháp Số 46 Tháng 9/2015 - Chuyên đề Vu Lan - Mùa Báo Hiếu
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant