Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tính cách đa dạng của tôn giáo

23 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 7694)
Tính cách đa dạng của tôn giáo


ĐỨC ĐẠT-LAI LẠT-MA
CON ĐƯỜNG ĐƯA ĐẾN HẠNH PHÚC 
Bản gốc tiếng Anh: The compassion life - NXB: Wisdom Publications, Boston, 2001.
Bản tiếng Pháp: Les voies spirituelles du Bonheur - NXB: Presses du Châtelet, Paris, 2002
Hoang Phong Việt dịch

4
Tính cách đa dạng của tôn giáo

Khi chưa nhìn thấy giá trị của những truyền thống tôn giáo khác, thật khó cho ta kính trọng các tôn giáo ấy. Tuy nhiên, sự kính trọng lẫn nhau phải căn cứ trên sự hài hoà chân thật. Chúng ta cần phải hướng đến một tình thần hài hoà, không phải vì lý do chính trị hoặc kinh tế, nhưng chỉ vì giá trị của các truyền thống khác. Riêng phần tôi, tôi luôn luôn cố gắng đề cao sự hài hoà giữa các tôn giáo.

Dựa vào đức tin của mình để nâng cao các giá trị căn bản của con người là một tiến trình tích cực. Các tôn giáo chính trên thế giới đều nêu cao giá trị của tình thương, lòng từ bi và sự tha thứ. Nhất định là mỗi tôn giáo thực hành theo cách thức của mình, nhưng tất cả đều nhắm vào những mục đích ít nhiều giống nhau – sống hạnh phúc hơn, trở nên từ bi hơn và xây dựng một thế giới với nhiều tình thương hơn –, sự đa dạng về phương pháp của các tôn giáo không quan trọng lắm. Tầm quan trọng lớn hơn là phải phát huy tình thương, lòng từ bi và sự tha thứ ; các tôn giáo chính đều hàm chứa một tiềm năng như nhau. Một số người có xu hướng tin vào tôn giáo, và khi đã nhìn thấy sự đa dạng về năng khiếu trong các xu hướng của con người, thì ta phải hiểu rằng sự kiện có nhiều tôn giáo khác nhau là một điều hữu lý. Sự thực bao giờ cũng ích lợi.

Đến đây tôi xin đề cập đến vấn đề hài hoà tôn giáo bằng cách phân biệt thành hai cấp bậc tâm linh khác nhau.

Cấp bậc tâm linh thứ nhất :
đức tin và sự rộng lượng

Đối với các tôn giáo chính cũng như đối với tất cả mọi người, cấp bậc tu tập thứ nhất chính là đức tin. Tôi tin rằng tất cả các tôn giáo đều đóng một vai trò quan trọng, nhưng nếu muốn cho các tôn giáo có thể góp phần một cách hữu hiệu vào lợi ích chung của nhân loại, cần phải có hai yếu tố.

Yếu tố thứ nhất là mỗi cá nhân – tức là chúng ta đây – khi đã theo một tôn giáo nào thì nên thực thi một cách chân thật. Những lời giáo huấntính cách tôn giáo phải trở thành những gì gắn liền với đời sống của ta và lưu lại trong ta. Đôi khi ta bước vào một nhà thờ hay một ngôi chùa để cầu nguyện hay tĩnh tâm, nhưng lúc vừa đặt chân ra khỏi các nơi ấy thì những giây phút nhiệt tình hướng về tôn giáo chẳng còn lưu lại gì cả. Như thế không phải là cách tu tập đứng đắn. Những gì mà tôn giáo ủy thác phải được giữ lại trong ta, dù cho ta đang ở bất cứ nơi nào. Tất cả những lời giáo huấn của tôn giáo phải luôn luôn hiện hữu trong sự sống, mỗi khi ta cần đến những cảm ứng thiêng liêng hay một sức mạnh đạo đức, ta sẽ có ngay. Khi những cảm ứngsức mạnh đó đã hiện hữu thường xuyên trong ta, thi khi ấy ta mới có thể sử dụng chúng để đối đầu với những khó khăn vụt đến.

Tôn giáo chỉ thật sự hữu ích khi đã hội nhập vào đời sống của ta. Cần phải biết tôn giáo đã dạy ta những gì và hãy áp dụng ngay những điều học hỏi được vào những cảm nhận của ta. Đôi khi các ý niệm về tôn giáo chỉ được hiểu một cách thật lờ mờ trên phương diện lý trí. Nếu thiếu sự cảm nhận, sức hữu hiệu của tôn giáo sẽ rất giới hạn. Vì thế phải tu tập chân thành để giúp sự sống của ta thấm nhuần với tôn giáo.

Yếu tố thứ hai liên quan nhiều hơn với sự tương quan giữa các tôn giáo. Ngày nay, nhờ vào tiến bô kỹ thuật và hệ thống kinh tế toàn cầu, chúng ta lại càng lệ thuộc với nhau nhiều hơn nữa. Những quốc gia cách biệt nhau, những lục địa xa xôi đều liên hệ mật thiết với nhau trong bối cảnh hiện tại. Sự liên hệ đó chặt chẽ đến đỗi sự tồn vong của một vùng nào đó trên địa cầu cũng đều liên hệ đến sự tồn vong của những nơi khác. Sự tương liên trên thế giới trở nên chặt chẽ hơn, vì thế sự tương tác giữa con người cũng mang tầm vóc rộng lớn hơn. Những biến chuyển trên đây chứng minh cho thấy thái độ chấp nhận sự đa dạng trong tôn giáo mang một tầm quan trọng vô biên. Trước đây, khi các tập thể con người sinh sống cách biệt nhau và các tôn giáo cũng tương đối bị cô lập, thì ý niệm chỉ cần một tôn giáo duy nhất còn có thể chấp nhận được, kể cả rất hữu ích nữa. Nhưng ngày nay, hoàn cảnh đã khác và tình thế đổi thay. Thật hết sức cần thiết phải chấp nhận sự đa dạng trong tôn giáo và chủ trương sự kính trọng lẫn nhau một cách thành thực, một sự tiếp xúc chặt chẽ giữa các tôn giáo là một điều bắt buộc. Trên đây là yếu tố thứ hai giúp cho mọi tôn giáo khác nhau trên thế giới trở nên hữu hiệu hơn trong các công tác chung về nhân đạo

Khi tôi còn sinh sống trên Tây tạng, ngoài Phật giáo ra tôi không có một dịp nào để tiếp xúc với các tín đồ của các truyển thống khác, thái độ lúc đó của tôi đối các tôn giáo khác không được tích cực lắm. Nhưng sau này khi tôi có dịp gặp những người thuộc các tín ngưỡng khác nhau, và nhân dịp đó để đào sâu những kinh nghiệm cá nhân, thì thái độ của tôi đối với các tôn giáo khác đã đổi thay. Tôi hiểu rằng các tôn giáo ấy hết sức cần thiết cho nhân loại và mỗi tôn giáo đều có tiềm năng đưa đến một thế giới tốt đẹp hơn. Suốt trong những thế kỷ vừa qua, các tôn giáo khác nhau đã góp phần tích cực để cải thiện con người, và kể cả ngày hôm nay, nhiều người tu tập đã đạt được sự thăng tiến nhờ vào các tôn giáo như Thiên chúa giáo, Hồi giáo, Do thái giáo, Phật giáo, Ấn độ giáo hoặc các truyền thống khác nữa.

Đối thoại với những người tu tập tthuộc những tôn giáo khác thật hết sức phong phú. Hãy lấy một thí dụ, các dịp dàm thoại giữa tôi với ông Thomas Merton, ngày nay đã qua đời, đã giúp tôi nhận ra ông là một con người tuyệt vời, và cũng giúp tôi hé thấy tiềm năng tinh thần hàm chứa trong đức tin Thiên chúa giáo. Vào một dịp khác, tôi làm quen với một nhà tu Thiên chúa giáo trong một tu viện nổi tiếng ở Montserra, thuộc Tây ban nha. Ông này đã sống ẩn dật nhiều năm trên một ngọn đồi phía sau tu viện. Khi tôi đến viếng vùng này, ông đã bỏ nơi ẩn cư để xuống gặp tôi, tiếng Anh của ông ta còn tệ hơn cả tiếng Anh của tôi, nhưng điều đó đã giúp tôi có thêm can đảm để đàm thoại với ông ! Chúng tôi ngồi đối mặt với nhau và tôi cất lời hỏi ông ta như sau : « Trong suốt những năm qua, ông đã làm gì trên đỉnh đồi thế ? ». Ông ta nhìn tôi một lúc rồi trả lời như sau : « Tôi thiền định về lòng từ bi và tình yêu thương ». Lúc ông ta cất lời để nói lên các tiếng ấy, tôi đã nhận thấy thông điệp trong mắt ông. Và tôi cảm nhận được một niềm kính trọng sâu xa nơi con người của ông và cả những người khác giống vơí ông. Đấy là những loại kinh nghiệm đã làm cho tôi tin rằng tất cả những tôn giáo trên thế giới, dù cho khác biệt trên lảnh vực triết họctín điều, đều có khả năng tạo ra những con người tốt. Mỗi tôn giáo đều quảng bá một thông điệp tuyệt vời.

Những lời giáo huấn xây dựng trên đức tin về một vị Trời sáng tạo nêu lên một hướng đi rất mạnh. Những người Thiên chúa giáo không tin vào sự tái sinh, cũng không tin vào các kiếp sống trước và các kiếp sống tương lai, nhưng sự vững tin là kiếp sống này do Trời tạo ra, đã giúp cho họ những xúc cảm gần gũi với đấng sáng tạo mà họ trực thuộc. Họ tiếp nhận những lời giáo huấn khuyên họ phải thương yêu các người đồng loại. Thật ra, nếu ta yêu quý Trời, ta phải yêu thương tất cả mọi người, bởi vì họ cũng như ta, tất cả đều là sự sáng tạo của Trời. Nếu như số phận tương lai của kẻ khác, cũng như của chính ta, đều nằm trong tay của Trời, thì đương nhiên chúng ta đều chịu chung một cảnh huống. Ngược lại, những ai đòi hỏi kẻ khác phải yêu mến Trời, nhưng chính mình thì lại không tỏ ra một dấu hiệu nào chứng tỏ tình yêu thương của mình đối với anh em và chị em cùng mang chung một đức tin, thì những kẻ đó thật đáng nghi ngờ. Bất cứ một người nào tin vào một vị Trời và vào tình thương của Ngài thì phải chứng tỏ một cách thành thật tình cảm của mình hướng về Trời bằng cách yêu thương người đồng loại. Cách suy diễn như thế tạo ra một sự tiếp cận mạnh mẽ, có phải thế hay chăng ?

Vì thế, khi ta quán xét một tôn giáo dưới nhiều khía cạnh khác nhau, như cách ta vừa làm – không phải bằng chính quan điểm triết học của ta, nhưng phải dựa trên nhiều cấp bậc khác nhau –, thì nhất định tất cả các tôn giáo chính đều mang tiềm năng giúp cho con người trở nên hoàn hảo hơn. Khi giao du với các tín đồ của các tôn giáo khác, ta sẽ biết mở rộng tâm thức và đưa đến một sự tương kính đối với các truyền thống khác. Tôi đã học hỏi được nhiều sáng kiến mới lạ liên quan đến các phương pháp tu tập khi tiếp xúc với các tôn giáo khác và đem ghép thêm vào cách tu tập của riêng tôi. Đồng thời, các anh em chị em Thiên chúa giáo cũng nên chọn và sử dụng một số kỹ thuật của Phật giáo – chẳng hạn như sự chú tâm vào một điểm và các phương pháp giúp phát huy sự rộng lượng, lòng từ bi và tình yêu thương. Những cuộc gặp gỡ và đối thoại như thế thật hữu ích, vì đã tích cực góp phần làm gia tăng thêm sự hài hoà giữa các tôn giáo.

Các nhà chính trị và các nguyên thủ Quốc gia thường nói đến sự tương trợ và đoàn kết. Tại sao chúng ta là những người thuộc phía tôn giáo lại lại không thể nêu lên điều đó ? Tôi nghĩ rằng đã đến lúc phải làm việc ấy. Vào năm 1997, tại Abisse thuộc nước Ý, các người đại diện các tôn giáo khác nhau trên thế giới tập họp lại để cùng nhau cầu nguyện, tuy rằng tôi không tin chắc rằng chữ « cầu nguyện » là một chữ thích nghi để mô tả một cách chính xác cách tu tập của tất cả các tôn giáo. Nhưng cũng chẳng sao, điều thiết yếu là những thành phần tôn giáo thuộc các truyền thống khác nhau đã tụ hội lại cùng một địa điểm để cầu nguyện, theo sự tin tưởng riêng của mỗi truyền thống. Theo tôi biến cố đó mang một tính cách rất tích cực. Cần phải tiếp tục trên đường hướng ấy và gia tăng nhiều hơn nữa những cố gắng đem đến hài hoà và giúp các tôn giáo trên toàn thế giới xích lại gần nhau hơn. Nếu không, có thể chúng ta sẽ còn phải đối đầu với thật nhiều khó khăn có thể chia rẽ cả nhân loại.

Nếu như tôn giáo là một liều thuốc duy nhất có thể làm suy giảm những xung đột giữa con người, thì quả thật là một thảm họa nếu liều thuốc ấy lại hoá thành nguồn gốc đưa đến xung đột với nhau. Kể cả ngày nay cũng như từ ngàn xưa, những bất hoà nhân danh tôn giáo vẫn thường bùng nổ, tôi thấy điều ấy hết sức là đáng buồn. Khi suy tư một cách cởi mở hơn và sâu xa hơn, ta sẽ nhận thấy tình thế trong quá khứ khác hẳn với ngày nay. Trong tình thế hiện tại, thay vì bị cô lập, chúng ta trở nên liên đới với nhau nhiều hơn. Vì thế thật cần thiết phải tạo lập sự tương quan chặt chẽ giữa các tôn giáo, giúp cho các đoàn thể có thể hợp tác bên cạnh nhau trong nổ lực chung hướng về sự an lành của nhân loại.

Cấp bậc tâm linh thứ hai :
từ bi là một tôn giáo toàn cầu

Cấp bậc tâm linh thứ hai, vượt lên trên mọi dị biệt về tôn giáo, đó là lòng từ bi và tình thương yêu giữa con người. Cấp bậc này quan trọng hơn nhiều so với cấp bậc thứ nhất, vì dù rằng tôn giáotốt đẹp đến đâu, thì cũng chỉ có một số ít người theo. Hầu hết trong số năm đến sáu tỷ người trên hành tinh này, hình như không có mấy ai tu tập hoặc theo bất cứ một tôn giáo nào cả. Tùy theo truyền thống gia đình, họ tự nhận diện như thuộc vào nhóm này hay nhóm khác – « tôi là người thuộc Ấn độ giáo », « tôi là người Phật giáo », « tôi là người Thiên chúa giáo » –, nhưng thật ra trong chính lương tâm họ, họ không phải là những người tu tập. Cũng chẳng sao ! Một người nào đó gia nhập hay không gia nhập vào một tôn giáohoàn toàn thuộc quyền cá nhân của họ. Tất cả các vị thầy lớn trong thời cổ xưa, chẳng hạn như Đức Phật, Mahavira, Jésus, Mahomet, không có vị nào thành công trong việc khai tâm cho hết tất cả mọi người. Chưa hề có ai làm được việc ấy. Sự kiện gán cho những người không tin là vô thần cũng chẳng hề hấn gì. Một số các học giả Tây phương xem những người Phật giáovô thần, vì lý do họ không tin vào một vị sáng tạo. Cách hiểu như thế đôi khi bắt buộc tôi phải chọn những chữ khác chẳng hạn như chữ « cực đoan » để chỉ định những người không tin gì cả. Tôi gọi họ là những người « không tin cực đoan », bởi vì chẳng những họ không tin vào một tôn giáo nào hết mà đồng thời họ lại tin chắc chắn một cách quả quyết là bất cứ một hình thức tâm linh nào cũng đều vô ích. Chúng ta phải tự nhắc nhở để nhớ rằng những kẻ đó cũng đều là những thành phần của nhân loại, và cũng như tất cả kẻ khác, họ cũng muốn được hạnh phúc và sống một cuộc sống thanh thảnêm đềm. Chính đó mới là điều quan trọng.

Theo ý tôi, chẳng có gì là xấu nếu muốn làm một kẻ không tin, nhưng một khi đã là thành phần của giống người, thì họ đều có nhu cầu về thương yêulòng từ bi như nhau. Đấy là những gì thiết yếu nhất trong những lời giảng huấn của các truyền thống tôn giáo. Nếu khôngtừ bi thì ngay cả những người tin vào tôn giáo cũng có thể trở thành những người gây ra tai hại. Hơn nữa, dù ta tin hay không tin, thì sự tu tập căn bản vẫn thuộc vào lãnh vực của tim ta. Theo tôi, từ bitình thương yêu là tôn giáo toàn cầu. Tất cả mọi người đều cần đến những thứ ấy vì chúng mang lại cho ta sức mạnh nội tâm, niềm hy vọng và sự an bình trong tâm thức. Từ bitình thương yêu quả thật cần thiết cho tất cả mọi người.

Như tôi đã nói đến trên đây, một vài anh em và chị em người Thiên chúa giáo, kể cả những người tu hành hay thế tục, đã nói với tôi là họ từng sử dụng các phương pháp Phật giáo để phát huy lòng từ bi cũng như đức tin Thiên chúa giáo của chính họ. Tôi vẫn thường nhắc nhở các bạn hữu Tây phương rằng tốt hơn hết cứ giữ lấy tôn giáo truyền thống của mình. Thay đổi tôn giáo không phải dễ và đôi khi lại có thể gặp những chuyện rối rắm.

Nhưng đối với những ai thấy rằng con đường Phật giáo hữu hiệu và phù hợp hơn với cách suy nghĩ của mình thì khi đó mới nên đắn đo một cách nghiêm chỉnh về việc này. Và một khi đã hoàn toàn tin chắcPhật giáo phù hợp với mình, thì lúc đó cứ đến với Phật giáo, một cách hoàn toàn tự do không có sự ép buộc nào. Nhưng dù sao, sau đây là những gì không được phép quên : đôi khi vì muốn biện minh cho sự cải đạo của mình khi chọn một đức tin mới, một vài người có thái độ chỉ trích tôn giáo hay truyền thống trước đây của họ. Tôn giáo cũ trước đây dù không còn phù hợp với lòng tin của họ nữa, nhưng vẫn hữu ích cho nhân loại. Biết công nhận quan điểmquyền hạn của kẻ khác cũng như những giá trị trong truyền thống của kẻ khác, có nghĩa là quý vị phải tiếp tục tôn vinh tôn giáo trước đây của quý vị. Điều này thật hết sức quan trọng.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 28197)
Phương Trời Cao Rộng - Truyện dài của Vĩnh Hảo, Chiêu Hà xuất bản tại California, Hoa Kỳ năm 1993, tái bản năm 1995
(Xem: 6693)
Tiếng nói của những người con Phật có tấm lòng từ bi và trí tuệ đi vào đời...
(Xem: 8790)
Báo Chánh Pháp - bộ mới Số 43, tháng 06 năm 2015
(Xem: 9321)
Hy hữu, vì biết lấy Phật giáo làm lý tưởng đời mình và chọn sự thực hành Phật Pháp như là sinh hoạt nền tảng hàng ngày
(Xem: 15390)
Nguời quân tử ra làm quan đi vào con đường hành chính, không những ngồi ung dung nơi miếu đường nói truyện văn nhã, để lấy tiếng là người có đức vọng...
(Xem: 8258)
Báo Chánh Pháp Số 41 Tháng 4/2015
(Xem: 8685)
Tuyển tập những bài viết về mùa Xuân trong nền văn hóa Phật giáo Việt Nam. Giai Phẩm Xuân Ất Mùi 2015...
(Xem: 16737)
Những ngữ cú của Sư được chép rải rác trong trứ tác của các nhà, nhưng chưa được gom tập. Cho nên vào niên hiệu Nguyên Văn, thiền sư Huyền Khế biên tập và đặt tên là Động Sơn Lục, tàng bản tại Bạch Hoa Lâm.
(Xem: 26985)
Thiền Lâm Bảo Huấn đây chính là phần Ngữ lục. Nội dung của sách Bảo Huấn được chia thành 4 quyển, gồm gần 300 thiên. Mỗi thiên đều là những lời vàng ngọc để răn dạy về cách tu tâm xử thế...
(Xem: 18685)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 15660)
Là một sách tự lực của tác giả người Mỹ Dale Carnegie, được viết vào năm 1948. Bản Việt Ngữ do Nguyễn Hiến Lê dịch năm 1955 tại Sài Gòn và đưa vào tủ sách Học làm người.
(Xem: 22544)
Để góp nhặt hết tất cả những ý niệm tác thành tập sách nhỏ “Tâm Nguyên Vô Đề” này là một lời sách tấn, khuyến khích của Thiện hữu tri thức để lưu dấu một cái gì. Cái uyên nguyên của Tâm... Nguyên Siêu
(Xem: 19479)
“Phật pháp trong đời sống” của cư sĩ Tâm Diệu là tuyển tập về mười hai chuyên đề Phật học gắn liền với đời sống của người tại gia.
(Xem: 18360)
Gió không từ đâu tới; gió cũng đã chẳng đi về đâu. Gió hiện hữu, rồi gió tan biến, xa lìa. Tử sinh cũng như thế. Tuy có đó, tuy mất đó
(Xem: 16210)
Đa số Phật tử Việt Nam thường chỉ học hỏi Phật pháp qua truyền thống Trung Hoa; ít ai để ý đến sự sai biệt căn để giữa khởi nguyên của Phật giáo từ Ấn Độ
(Xem: 25652)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 12888)
Tay Bụt trong tay ta có nghĩa là ta được nắm tay Bụt mà đi. Cũng có nghĩa là trong tay ta đã có tay Bụt. Bụt và ta không còn là hai thực tại riêng biệt.
(Xem: 37867)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 20097)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 10718)
Bộ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục do cư sĩ Bành Tế Thanh cùng cháu là Hy Tốc, người đời Càn Long nhà Thanh sưu tập những truyện niệm Phật được vãng sanh soạn thành.
(Xem: 10033)
Tâm là nguồn sống vô tận và ánh sáng của tâm là ánh sáng vô tận. Tâm lắng yên phiền nãotâm bình đẳng và thanh tịnh vô tận.
(Xem: 10562)
Nguyên tác: The Art of Happiness in a Troubled World; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma và Howard C. Cutler; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 10396)
Cuốn sách này được viết ở Thái Lan, nơi tôi đã sống trong một vài năm. Khi tôi gặp người Thái, tôi đã rất ấn tượng trước sự rộng lượng của họ.
(Xem: 11045)
Sách này không ngại phổ biến cho nhiều người cùng đọc. Có thể nhờ đọc nó, người ta có cơ hội bước vào cửa ngõ Chánh pháp...
(Xem: 15240)
Bửu Tạng Luận tác giảTăng Triệu, bài luận này và bộ Triệu Luận đều có ghi trong tập 96 của Tục Tạng Kinh, nhưng bộ Triệu Luận đã lưu hành từ xưa nay...
(Xem: 10848)
Theo truyền thuyết Ấn giáo, thần Vishnu có lần hoá sinh làm một vị vương tử sống bên bờ sông Hằng. Tên ông là Ravana...
(Xem: 19701)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 11711)
Sư sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Ông Tổ năm đời của Sư làm quan Quản chu tượng coi thợ đóng thuyền cho triều đình.
(Xem: 10786)
Đây là một quyển sách ghi lại ba ngày thuyết giảng của Đức Đạt-lai Lạt-ma tại thành phố Luân Đôn vào mùa xuân năm 1984, tức cách nay (2014) đúng ba mươi năm.
(Xem: 11251)
108 lời dạy của Đức Đạt-lai Lạt-ma được gom góp trong quyển sách tuy bé nhỏ này nhưng cũng đã phản ảnh được một phần nào tư tưởng của một con người rất lớn, một con người khác thường giữa thế giới nhiễu nhương ngày nay.
(Xem: 10111)
Đức Phật hướng dẫn cần chuyển hóa tâm thức làm cho nỗi đau, phiền não, nghiệp chướng không còn sức sống, lúc đó chúng ta mới đạt được hạnh phúc thật sự.
(Xem: 10569)
Đại sư quả quyết với chúng ta rằng những điều nói ra trong "Chứng Đạo Ca" là để dẫn chúng ta "Chứng thực tướng, không nhân pháp,"
(Xem: 11558)
Suốt hai mươi lăm thế kỷ hiện hữu trên thế gian này, đạo Phật chưa một lần gây tổn thương hoặc làm thiệt hại cho bất cứ một dân tộc, xã hội hay quốc gia nào.
(Xem: 10895)
Chủ yếu Đạo Phật là chỉ dạy chúng sanh giải thoát mọi khổ đau, song lâu đài giải thoát phải xây dựng trên một nền tảng giác ngộ...
(Xem: 11408)
Lăng Già ngời bóng nguyệt, Hoàng Anh đề trác tuyệt, Dị thục thức đã thuần, Ca bài ca bất diệt.
(Xem: 12164)
Bậc Thánh A La Hán, bậc đã thanh lọc tâm, là người không bao giờ còn phải tái sinh trở lại. Nếu tâm của ngài căn bảnthanh tịnh...
(Xem: 11066)
Tiếng đại hồng chung ngân vang như xé tan bầu không khí đang trầm lắng. Đó là báo hiệu cho mọi người chuẩn bị hành lễ của thời khóa Tịnh độ tối...
(Xem: 13023)
Chủ đề: 50 năm xuất giahành đạo của HT. Thích Như Điển
(Xem: 17785)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15245)
Bản tiếng Anh của Santideva. A Guide to the Bodhisattva Way of Life; Do Đặng Hữu Phúc dịch sang tiếng Việt dựa theo bản Phạn-Anh.
(Xem: 15721)
Các Tổ sư Thiền có khi hỏi đã không đáp, mà dùng gậy đánh, roi quật, miệng hét như trường hợp Tổ Hoàng BáThiền sư Nghĩa Huyền...
(Xem: 11006)
Thân hình tuy còn ngồi ở nơi thành thị, nhưng phong thái mình đã là phong thái của người sống ở núi rừng. Khi các nghiệp (thân, khẩu và ý) đã lắng xuống thì thể và tính mình đều được an tĩnh...
(Xem: 12118)
Kinh Quán Niệm Hơi Thở là một hệ thống thiền tập rất căn bản của đạo Bụt, là một nghệ thuật vun trồngđiều phục thân tâm tuyệt vời.
(Xem: 11049)
Hồn Bướm Mơ Tiên là tác phẩm mang âm hưởng Phật giáo rất sâu sắc dưới cái nhìn của tác giả.
(Xem: 21857)
Phật Giáo còn được phân chia thành hai nhánh khác nhau là Tiểu Thừa (Hinayana) và Đại Thừa (Mahayana)... Nguyên tác: Ajahn Chan; Hoang Phong chuyển dịch
(Xem: 12098)
Giai Nhân Và Hòa Thượng gồm có 10 truyện ngắn Do Hội Giáo Dục Từ Thiện Sariputtra Xuất bản năm 2006... HT Thích Như Điển
(Xem: 9183)
Kỷ Yếu Kỷ Niệm Chu Niên 20 Năm Thành Lập Tu Viện Quảng Đức, chính thức ra mắt nhân dịp Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15 của Giáo Hội, được tổ chức tại Tu Viện Quảng Đức từ ngày 1 đến 11 tháng 7 năm 2014...
(Xem: 20184)
Quyển sách nầy nhằm giải đáp một phần nào những thắc mắc trên qua kinh nghiệm bản thân của người viết... HT Thích Như Điển
(Xem: 17261)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10104)
Tôi chia sẻ các phương pháp điều trị ung thư không phải để khoe khoang kiến thức về bệnh tật, y khoa và thiền học... Chân Pháp Đăng
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant