- Lời Giới Thiệu/ Lời Người Dịch
- Tiểu Sử Tác Giả/ Lời Tác Giả
- Phần I: Đời Sống Và Thông Điệp Của Đức Phật
- Phần II: Phật Giáo: Cốt Tủy - So Sánh Các Vấn Đề
- Phần III: Sống Theo Chánh Pháp
- Phần IV: Đời Sống Con Người Trong Xã Hội
- Phần V: Một Tôn Giáo Cho Sự Tiến Bộ Thực Sự Của Nhân Loại
- Phần VI: Thế Giới Này Và Thế Giới Khác
VÌ SAO TIN PHẬT
Hòa thượng K. Sri Dhammananda - Thích Tâm Quang dịch Việt - California, Hoa Kỳ, 1997
Nguyên tác: What Buddhists believe, Malaysia, 1987
PHẦN IV
ĐỜI SỐNG CON NGƯỜI TRONG XÃ HỘIChương 11
ĐỜI SỐNG VÀ VĂN HÓA-ooOoo-
TRUYỀN THỐNG, TẬP TỤC VÀ HỘI HÈ
Đạo Phật không có thành kiến với các truyền thống và tập tục nếu những điều này không hại đến phúc lợi của người khác.
Đức Phật khuyên ta không nên đơn giản tin vào điều gì chỉ vì điều đó có từ tập tục truyền thống. Tuy nhiên, ta cũng không được khuyến bảo là hãy chối bỏ ngay tất cả các truyền thống. "Bạn phải cố gắng thử nghiệm với những tập tục và thông qua bằng cách khảo sát phẩm chất của chúng. Chỉ khi chúng tỏ ra hữu lý và đem đến hạnh phúc vừa cho bạn vừa lợi lạc cho người khác, bạn mới nên chấp nhận và thực hành các truyền thống và tập tục này (Kinh Kalama). Chắc chắn đây là một lời tuyên bố phóng khoáng nhất chưa từng thấy ở bất cứ một đạo sư tôn giáo nào. Thái độ bao dung đối với mọi truyền thống và tập tục ngoại đạo này cũng không thấy nơi các tín đồ tôn giáo khác. Những tín đồ khác này thường khuyên những ai mới nhập đạo mình bỏ ngay tất cả những truyền thống, tập tục văn hóa của họ mà không cần xét xem chúng tốt hay xấu. Trong khi giảng dạy Giáo Pháp, những nhà truyền bá Đạo Phật không bao giờ khuyến cáo dân chúng bỏ mất những truyền thống của họ nếu những truyền thống này còn hợp lý. Những tập tục và truyền thống phải ở trong phạm vi nguyên tắc đạo hạnh. Nói một cách khác, ta không nên vi phạm giới luật để giữ đúng truyền thống của mình. Nếu ta cố tình tuân thủ những truyền thống riêng tư không có một giá trị đạo hạnh nào cả thì tuy vẫn có thể thực thi nhưng đó không phải được thực thi dưới danh nghĩa tôn giáo. Cho dù như vậy đi nữa những hình thức tập tục như vậy phải vô hại cho chính mình và cho tất cả các chúng sinh khác.
NGHI THỨC VÀ NGHI LỀ
Nghi thức và nghi lễ nằm trong phạm vi tập tục và truyền thống. Nghi thức và nghi lễ tựa như là sự trang hoàng hay trang trí để làm đẹp tôn giáo hầu lôi cuốn đại chúng. Nghi thức và nghi lễ có ích cho một số người về mặt tâm lý. Nhưng ta có thể hành đạo mà không cần nghi thức và nghi lễ nào cả. Một số nghi thức và nghi lễ được người khác coi như khía cạnh quan trọng nhất về tôn giáo của họ để cứu độ nhưng Phật Giáo lại không quan niệm như vậy. Theo Đức Phật, ta không nên bị dính mắc vào những hình thức hành trì như thế trong bước đường mở mang tinh thần hay thanh lọc tâm ý của mình.
LỀ HỘI
Người Phật Tử thuần thành và chân chính không tham dự các lễ hội để giải trí bằng rượu chè và các trò vui hay tiệc tùng bằng cách giết hại thú vật. Người Phật Tử chân chính tham dự các ngày lễ hội theo một cung cách hoàn toàn khác biệt. Họ dành thì giờ vào một ngày lễ vía đặc biệt nào đó để kiêng tránh mọi điều bất thiện. Họ làm việc phước thiện và giúp đỡ người khác giảm bớt khổ đau. Họ có thể chiêu đãi bè bạn và người thân trong gia đình bằng một phương cách tương kính .
Lễ lạc sát nhập với đạo giáo đôi khi có thể làm ô nhiễm sự thanh tịnh của tôn giáo. Mặt khác một tôn giáo không có lễ hội có thể trở nên tẻ nhạt, thiếu sống động đối với nhiều người. Thường thường nhờ qua hội hè lễ lạc mà các em nhỏ và các thiếu niên đến với tôn giáo. Với giới trẻ, sự lôi cuốn của một tôn giáo được căn cứ vào các lễ hội.Tuy nhiên đối với người hành thiền, thì hội hè trở thành mối phiền toái khó chịu.
Đương nhiên cũng có một số người không hài lòng nếu các lễ hội chỉ cử hành các nghi thức tôn giáo không thôi. Thông thường họ thích có những loại vui chơi và các màn trình diễn hướng ngoại. Nghi thức, nghi lễ, các buổi lễ, diễn hành, và hội hè được tổ chức để đáp ứng khát vọng thỏa mãn xúc cảm qua tôn giáo. Không một ai có thể nói những hình thức thực hành như vậy là sai, nhưng người Phật Tử thuần thành phải biết tổ chức các cuộc lễ một cách có văn hóa mà không gây khó chịu hay phiền toái cho người khác.
PHẬT GIÁO VÀ PHÁI NỮ
Ngay cả một em bé gái cũng có thể chứng minh là tốt hơn một bé trai.
Địa vị của người đàn bà trong Phật Giáo thật là độc đáo. Đức Phật cho phái nữ hoàn toàn được tự do gia nhập đời sống phạm hạnh. Đức Phật là vị Đạo Sư Tôn Giáo duy nhất cho đàn bà sự tự do tôn giáo. Trước thời Đức Phật, bổn phận nữ giới bị giới hạn chỉ trong việc bếp núc; nữ phái không được phép vào bất cứ một ngôi chùa nào, hay đọc bất cứ bài kinh nào. Trong thời Đức Phật, địa vị của phái nữ trong xã hội ở vào mức rất thấp kém. Đức Phật đã bị công kích bởi các tổ chức đang thịnh hành khi Ngài dành tự do cho phái nữ. Sự cải cách của Ngài cho phép nữ phái gia nhập Đoàn Thể Thánh Thiện quả là hết sức cấp tiến vào thời đó. Ngài còn cho phép nữ phái tự chứng minh cho thấy đàn bà cũng có khả năng như đàn ông để đạt được đạo quả A La Hán, địa vị cao nhất trong đời sống tôn giáo. Mỗi nữ nhân trên thế giới phải tri ân Đức Phật vì Ngài đã cho họ thấy cách sống đạo hạnh thực sự và cho họ sự tự do lần đầu tiên trong lịch sử thế giới.
Những lời nói của Mara sau đây đã minh họa về thái độ coi thường khá phổ biến đối với phụ nữ thời Đức Phật hiện tiền:
"Với trí tuệ nông cạn, không có đàn bà nào có thể hy vọng tiến tới đỉnh cao mà chỉ có các bậc hiền triết mới đạt được thôi"
Chắc chắn Đức Phật đã triệt để chống lại thái độ như vậy. Vị tỳ kheo ni mà Mara đưa ra những lời trên đây đã đáp lại như sau:
"Khi tâm được định tỉnh vững vàng, trí tuệ chắc chắn phải đạt, thì làm đàn bà có khác gì đâu?
Hoàng Đế Kosola rất thất vọng khi được biết Hoàng Hậu sanh con gái trong khi Ngài mong mỏi có con trai. Để an ủi nhà Vua, Đức Phật nói:
"Tâu Hoàng Thượng, Bé Gái nhỏ này có thể chứng minhĐức Phật xác nhận là người đàn bà cũng rất khôn ngoan và không phải chỉ đàn ông mới khôn ngoan.
Cho thấy Bé còn hơn cả con trai
Bé sẽ lớn lên khôn ngoan và đạo hạnh,
Mẹ chồng trọng vọng, xứng đáng vợ hiền,
Sẽ sanh ra nam tử tài đức tuyệt luân,
Trị vì đại quốc, vâng, một đứa con,
Của một người vợ cao quý như thế sẽ trở thành người lãnh đạo quốc gia".
-- (Tương Ưng Bộ Kinh)Ngày nay có nhiều nhà tôn giáo thích tuyên bố là tôn giáo của họ cho nam nữ bình quyền. Chúng ta chỉ cần nhìn vào thế giới ngày nay chung quanh chúng ta, chúng ta sẽ thấy địa vị của phụ nữ trong xã hội. Hầu như phụ nữ không được bình quyền và vẫn bị kỳ thị trong nhiều lãnh vực và thường vẫn bị lạm dụng trong nhiều hình thức tinh tế. Ngay cả tại các quốc gia tây phương, những phụ nữ như các hội đòi quyền bầu cử phải tranh đấu hết sức cam go cho quyền lợi của họ. Theo Phật Giáo, không thể nào bào chữa cho việc coi phự nữ là hạ đẳng. Chính Đức Phật cũng sanh ra nhiều lần là phự nữ trong những tiền kiếp luân hồi của Ngài, và dù là phái nữ Ngài vẫn phát triển những phẩm cách cao thượng, và trí tuệ cho đến khi Ngài đạt Giác Ngộ và Phật Quả.
PHẬT GIÁO VÀ CHÍNH TRỊ
Đức Phật đã vượt ra khỏi mọi vấn đề thế tục, nhưng Ngài vẫn có lời khuyên về việc lãnh đạo chính quyền.
Đức Phật thuộc dòng dõi giai cấp lãnh đạo đương nhiên có liên hệ với các bậc vua chúa, hoàng tử, và đại thần. Mặc dù mối liên hệ và giao tiếp đó, Ngài không bao giờ dùng đến ảnh hưởng quyền uy chính trị để quảng bá giáo lý của Ngài; Ngài cũng không cho phép giáo lý của Ngài được lạm dụng để đạt uy quyền chính trị. Nhưng ngày nay, nhiều chính trị gia cố gắng lôi kéo danh nghĩa Đức Phật vào chính trị bằng cách giới thiệu Ngài là cộng sản, là tư bản, hay cả đến là người ủng hộ chủ nghĩa đế quốc nữa. Họ quên rằng triết lý chính trị mới mà chúng ta được biết thực ra chỉ phát triển ở Âu Tây một thời gian lâu sau thời Đức Phật. Những ai cố gắng sử dụng danh nghĩa của Đức Phật cho lợi ích cá nhân của mình cần phải nhớ rằng Đức Phật là bậc Đại Giác đã vượt ra khỏi tất cả những liên quan thế tục.
Có một vấn đề cố hữu là người ta hay đem trộn lẫn tôn giáo vào chính trị. Căn bản của tôn giáo là đạo đức, thanh tịnh và đức tin, trong khi căn bản của chính trị là quyền thế. Theo dòng lịch sử, tôn giáo thường được sử dụng để hợp pháp hóa những người đang nắm quyền hành và sự thi hành quyền lực ấy. Tôn giáo đã được dùng để biện minh cho chiến tranh, xâm lược, khủng bố, nổi loạn, phá hoại tác phẩm mỹ thuật và văn hóa.
Khi tôn giáo được sử dụng để thỏa mãn ý đồ chính trị, tôn giáo phải đi trước những lý tưởng đạo đức cao cả và trở nên mất giá trị bởi những yêu cầu chính trị trần tục.
Sức đẩy của Phật Pháp không phải nhằm vào việc tạo lập các thể chế chính trị mới và các cuộc cải tổ chính trị. Phật Pháp căn bản tìm cách giải quyết các khó khăn của xã hội bằng cách cải tạo chính những con người thành lập xã hội ấy và bằng cách đề nghị một số nguyên tắc tổng quát để xã hội được hướng dẫn tới tinh thần nhân cao cả hơn, để cải tiến phúc lợi cho thành viên, và chia sẻ tài nguyên công bằng hơn.
Thể chế chính trị chỉ có một giới hạn nào đó trong việc bảo toàn hạnh phúc và sự thịnh vượng của người dân. Không có một hệ thống chính trị nào, dù có vẻ lý tưởng đến đâu đi nữa lại có có thể mang thực sự hòa bình và hạnh phúc chừng nào mà con người trong đó còn bị chi phối bởi tham, sân và si. Hơn nữa, dù áp dụng thể chế chính trị nào đi nữa, vẫn có những yếu tố chung nhất mà thành viên của xã hội ấy phải kinh nghiệm: đó là kết quả của thiện nghiệp và ác nghiệp, là không thể có sự toại nguyện thực sự hay hạnh phúc trường cửu trong cái thế giới có đặc tính khổ đau, vô thường, và vô ngã này. Với người Phật Tử, không nơi đâu trong cõi Luân Hồi này có được tự do thực sự, ngay cả trên thiên đường hay thế giới của Phạm Thiên.
Mặc dù một hệ thống chính trị tốt và công bằng bảo đảm được nhân quyền căn bản, bao hàm sự hạn chế và quân bình trong việc sử dụng quyền lực là một điều kiện quan trọng cho đời sống hạnh phúc trong xã hội, người ta không nên lãng phí thì giờ vào sự tìm kiếm bất tận một hệ thống chính trị chủ yếu mà con người có thể hoàn toàn được tự do, vì tự do hoàn toàn không thể tìm trong bất cứ một hệ thống nào mà chỉ tìm thấy trong những tâm đã được tự do mà thôi. Muốn được tự do, con người phải nhìn trở vào nội tâm mình và hành hoạt làm sao để giải thoát chính mình khỏi xiềng xích của vô minh và tham dục. Tự do trong ý nghĩa đúng nhất của nó chỉ có thể đạt được khi một người biết sử dụng Pháp để phát triển cá tính qua lời nói và hành động chính đáng và rèn luyện tâm ý để phát triển tiềm năng tinh thần và hoàn tất mục tiêu giác ngộ tối hậu.
Trong khi công nhận sự ích lợi của việc tách rời tôn giáo với chính trị và những giới hạn của hệ thống chính trị trong việc mang hòa bình và hạnh phúc, có nhiều khía cạnh của lời Phật dạy tương đồng gần gữi với sự cải biến chính trị hiện tại. Trước tiên, Đức Phật đã nói về sự bình đẳng của tất cả mọi người từ lâu trước Abraham Lincoln, và về những giai tầng và đẳng cấp xã hội là những chướng ngại nhân tạo dựng nên bởi xã hội. Theo Ngài chỉ có sự phân chia thứ hạng của con người, được căn cứ trên phẩm cách và đạo đức. Thứ hai, Đức Phật khuyến khích tinh thần hợp tác xã hội và sự tham gia tích cực vào xã hội. Tinh thần này được tích cực đẩy mạnh trong tiến trình chính trị của xã hội tiên tiến. Thứ ba, vì Đức Phật không chỉ định ai là người thừa kế Ngài nên thành viên của Tăng Đoàn được hướng dẫn bởi Giáo Pháp và Luật, hay nói tóm lại bởi Giới Luật. Cho đến ngày nay, thành viên của Đoàn Thể Tăng Già đều phải tuân theo Giới Luật, Giới Luật chi phối và hướng dẫn tư cách đạo đức họ.
Thứ tư, Đức Phật khuyến khích tinh thần trao đổi ý kiến và tiến trình dân chủ. Điều này được thể hiện trong phạm vi Đoàn Thể Tăng Già mà tất cả thành viên đều có quyền quyết định về những công việc có tính cách chung. Khi nêu lên một vấn đề nghiêm trọng đòi hỏi sự chú ý, những cách giải quyết được đưa ra giữa các tỳ kheo để bàn luận giống như trong hệ thống nghị trường dân chủ hiện tại. Thủ tục theo chế độ tự quản này đã làm cho nhiều người ngạc nhiên khi biết rằng trong các hội trường Phật Giáo tại Ấn cách đây hơn 2500 năm đã thấy có những nguyên tắc sơ đẳng của thể thức áp dụng tại nghị trường ngày nay. Một giới chức đặc biệt giống như vị Chủ Tịch Viện được chỉ định để bảo quản phẩm cách của hội nghị. Một giới chức thứ hai được chỉ định giống như vai trò của Nghị Viên phụ trách tổ chức (Chief Whip) để kiểm soát túc số (tức số đại biểu qui định). Những vấn đề được đưa ra thảo luận dưới hình thức đề nghị. Trong một số trường hợp, vấn đề chỉ phải biểu quyết một lần, trong các trường hợp khác phải đến ba lần, thủ tục này đã đi trước Nghị Viện ngày nay đòi hỏi một dự án phải được đọc lần thứ ba truớc khi thành luật. Nếu cuộc thảo luận có những ý kiến dị biệt, vấn đề phải được quyết định bằng đa số tuyệt đối trong một cuộc đầu phiếu kín.
Đường lối Phật Giáo đến với quyền uy chính trị là sự đạo đức hóa và sự sử dụng có trách nhiệm về quyền lực của đại chúng. Đức Phật thuyết giảng về bất bạo động và hòa bình như một thông điệp cho toàn thể vũ trụ. Ngài không chấp nhận bạo động hay sự phá hoại đời sống, và tuyên bố là không có một cuộc chiến tranh nào được gọi là "chính đáng". Ngài dạy: "Kẻ chiến thắng gieo hận thù, kẻ chiến bại sống đời lầm than. Ai là kẻ từ bỏ cả thắng lẫn bại, kẻ đó hạnh phúc và an lạc"". Không những Đức Phật dạy bất bạo động và hòa bình, Ngài là vị Ðạo Sư Tôn Giáo duy nhất thân hành đến chiến trường để ngăn cản chiến tranh. Ngài đã hóa giải sự căng thẳng giữa hai dòng họ Thích Ca và Koliyas sắp sửa khởi chiến trên dòng sông Rohini. Ngài đã thuyết phục được Hoàng Đế A Xà Thế dừng binh đi đánh Vương Quốc Vajjis.
Đức Phật thảo luận sự quan trọng về điều kiện tiên quyết của một chính quyền tốt. Ngài trình bầy cho thấy một đất nước đi đến thối nát, suy đồi, và bất hạnh như thế nào khi người cầm đầu chính phủ những lạm và bất công. Ngài chống lại sự tham những và cho biết chính quyền cần hành động ra sao căn cứ trên nguyên tắc nhân đạo.
Đức Phật có lần nói: "Khi người cầm quyền quốc gia công bằng và đức hạnh, các bộ trưởng (đại thần) cũng trở nên công bằng và đạo hạnh; khi các bộ trưởng công bằng và đạo hạnh, những giới chức cao cấp trở nên công bằng và đạo hạnh; khi các giới chức cao cấp công bằng và đạo hạnh, đội ngữ và đoàn sinh trở nên công bằng và đạo hạnh; khi đội ngữ và đoàn sinh trở nên công bằng và đạo hạnh, người dân trở nên công bằng và đạo hạnh ". (Tăng Chi Bộ Kinh)
Trong kinh Cakkavatti Sihananda, Đức Phật dạy vô luân và tội ác, như trộm cắp, lừa dối, bạo động, sân hận, độc ác, có thể phát xuất vì nghèo khổ. Các vua chúa và chính quyền có thể cố gắng ngăn chận tội ác bằng hình phạt, nhưng chỉ dùng võ lực để triệt tiêu tội ác thì vô ích.
Trong kinh Kutadanta, Đức Phật khuyến dụ nên phát triển kinh tế thay vì võ lực để giảm thiểu tội ác. Chính quyền nên sử dụng tài nguyên quốc gia để cải tiến điều kiện kinh tế trong nước. Có thể bắt tay vào việc phát triển nông nghiệp và mở mang nông thôn, hỗ trợ tài chánh cho các nhà thầu và người kinh doanh, trả lương xứng đáng cho công nhân để duy trì cuộc sống tươm tất có nhân cách.
Trong kinh Jataka, Đức Phật dạy mười điều cần thiết cho một chính quyền tốt được gọi là "Dasa Raja Dharma". Mười điều này có thể áp dụng cả đến ngay nay cho bất cứ một chính quyền muốn trị nước hòa bình. Những nguyên tắc đó là:
1. Không thành kiến và tránh ích kỷ,Về tư cách của người lãnh đạo, Ngài khuyên thêm:
2. Duy trì đặc tính luân lý cao,
3. Sẵn sàng hy sinh lạc thú riêng tư cho hạnh phúc của người dân,
4. Chân thật và hết sức liêm chính,
6. Sống cuộc đời thanh bạch cho người dân tích cực noi gương,
7. Không bị bất cứ hình thức sân hận nào,
8. Bất bạo động,
9. Thực hành hạnh kiên nhẫn, và
10. Tôn trọng ý kiến quần chúng để động viên hòa bình và hòa hợp.(a) Người cầm quyền tốt hành động vô tư, không thành kiến và không kỳ thị giữa nhóm này với nhóm khác.Kinh Milanda Panha có nêu như sau: "Nếu một người thiếu tư cách, thiếu khả năng, không thích hợp, bất lực và không đáng làm vua, tự mình tôn phong làm vua hay người trị vì với uy quyền to lớn, kẻ đó sẽ bị hành hạ khổ sở...., phải chịu nhiều hình phạt bởi người dân, vì thiếu tư cách và không xứng đáng, đã tự mình lên ngôi vua bất chính". Người cầm quyền, cũng như những người khác vi phạm và đi quá giới đức và nguyên tắc căn bản của tất cả luật lệ xã hội trong nhân loại, thì cũng phải chịu hình phạt; hơn thế nữa, người cầm quyền bị khiển trách đã sử sự như một tên ăn cắp của công. Câu chuyện trong Kinh Jataka có nêu rằng người cầm quyền nào trừng phạt người vô tội, và không trừng phạt kẻ có tội thì không xứng đáng trị vì đất nước.
(b) Người cầm quyền tốt không ấp ủ bất cứ loại sân hận nào với bất cứ ai.
(c) Người cầm quyền tốt phải tỏ ra không sợ hãi bất cứ điều gì khi thi hành luật pháp, nếu luật pháp ấy đúng.
(d) Người cầm quyền tốt phải có sự hiểu biết rõ ràng luật lệ thi hành. Không phải là luật lệ phải thi hành chỉ vì người cầm quyền có quyền hành để thi hành luật ấy. Luật pháp phải được thi hành một cách hợp lý và hợp với lẽ phải thông thường. -- (Kinh Cakkavatti Sihananda)"Nhà Vua lúc nào cũng phải tự mình thăng tiến, và cẩn thận quán chiếu hạnh kiểm của mình trong hành vi, lời nói và tư tưởng, luôn luôn cố gắng tìm tòi và lắng nghe ý kiến đại chúng xem mình có phạm lỗi lầm hay sai sót trong việc trị vì vương quốc. Nếu có sự trị vì sai quấy, họ sẽ kêu ca khi bị thiệt hại bởi sự bất lực của người cầm quyền do chính sách hình phạt, thuế má, bất công hay những áp bức kể cả sự tham những dưới bất cứ hình thức nào, và người dân sẽ chống lại nhà cầm quyền bằng cách này hay cách khác. Trái lại, nếu nhà vua trị vì minh chánh, thần dân sẽ chúc phúc ngài : Hoàng Thượng Muôn Năm". (Majjhima Nikaya - Trung Bộ)
Đức Phật nhấn mạnh về trọng trách của người cầm quyền biết dùng sức mạnh quần chúng để cải tiến phúc lợi cho dân như Hoàng đế Asoka đã làm vào thế kỷ thứ ba trước Tây Nguyên. Asoka, một tấm gương sáng chói về nguyên tắc này vì vua đã quyết định sống đúng theo Giáo Pháp và truyền bá Chánh Pháp để phục vụ dân chúng và nhân loại. Vị Hoàng Đế này tuyên bố không dùng võ lực với quốc gia lân bang, và cam kết thiện chí này bằng cách gửi các sứ giả cùng với thông điệp hòa bình và không gây hấn đến những vị vua ở xa. Ngài đã động viên sự phát huy các đức hạnh xã hội như chân thật, trung thành, từ bi, nhân ái, bất bạo động, cư xử đứng đắn với mọi người, không phung phí, không hám lợi, và không làm tổn thương thú vật. Ngài khuyến khích tự do tôn giáo và sự tôn kính lẫn nhau giữa các tôn giáo. Ngài tổ chức các cuộc thuyết Pháp định kỳ cho các đồng bào tại nông thôn. Ngài phụ trách các công việc lợi ích công cộng, như thiết lập các bệnh viện cho người và vật, cung cấp thuốc men, trồng cây cối trên các đường lộ và rừng, đào giếng, xây cất các trạm tiếp tế nước và các nhà tạm trú. Ngài triệt để cấm ác độc với thú vật.
Có đôi khi Đức Phật được xem như một nhà cách mạng xã hội. Chẳng hạn như Ngài lên án hệ thống giai cấp, xác nhận sự bình đẳng giữa mọi người, lên tiếng về sự cần thiết cải tiến các điều kiện kinh tế xã hội, công nhận tầm quan trọng của việc chia sẻ hợp lý của cải giữa người giàu và người nghèo, nâng cao địa vị phụ nữ, khuyến cáo tinh thần hợp tác nhân đạo trong chính quyền và nền hành chánh, dạy rằng không nên điều hành xã hội bằng lòng tham mà phải bằng lòng tôn trọng và từ ái đối với dân chúng.
Ngoài những việc như trên, sự đóng góp của Đức Phật cho nhân loại còn vĩ đại hơn nhiều vì Ngài đã phát động một điểm mà từ trước tới nay chưa có một nhà cải cách nào đã làm bằng cách đi ngược vào gốc rễ thâm sâu nhất của tính bất thiện nằm trong tâm con người. Cải cách chân chính chỉ có thể có hiệu quả khi được thực hiện ngay trong tâm con người. Những cải cách bằng sức mạnh trên thế giới bên ngoài đều rất ngắn hạn vì không có gốc rễ. Nhưng những cải cách nẩy sanh từ kết quả của sự thay đổi tâm thức bên trong con người mới có gốc rễ lâu dài. Khi những cánh cây đâm chồi mọc nhánh, chúng sẽ rút dinh dưỡng từ một nguồn không bao giờ cạn là những thôi thúc do bản năng của dòng sống đang trôi chảy. Cho nên những cải cách chỉ hữu hiệu khi tâm con người đã chuẩn bị sẵn sàng phương cách, và chúng chỉ được duy trì được bao lâu mà con người còn biết bồi dưỡng sinh khí cho chúng bằng tình yêu thương chân lý, công bằng, và đồng loại.
Học thuyết của Đức Phật giảng dạy không căn cứ trên "Triết Lý Chính Trị". Học thuyết này cũng chẳng phải để khuyến khích con người thụ hưởng lạc thú thế gian mà để chỉ rõ cho thấy con đường đạt Niết Bàn. Nói một cách khác, mục đích rốt ráo là chấm dứt ái dục trói buộc con người trong thế giới này. Câu kệ trong Kinh Pháp Cú đã khéo tóm tắt sự xác định ấy như sau: "Con đường dẫn đến lợi lạc trần gian là một, và dẫn đến Niết Bàn bằng cách sống một cuộc đời đạo hạnh lại là một con đường khác".
Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là người Phật Tử không thể, hay không nên tham gia vào hoạt động chính trị vốn là một thực thể trong xã hội. Cuộc sống của những thành viên trong xã hội được hình thành bởi luật lệ và quy tắc, bởi những cải cách kinh tế hợp pháp trong nước, những sự canh tân về tổ chức ảnh hưởng bởi các nguyên tắc chính trị của xã hội ấy. Tuy vậy, nếu một Phật Tử muốn hoạt động chính trị, người đó không nên dùng tôn giáo để đạt uy quyền chính trị, và cũng không nên khuyến bảo những ai đã từ bỏ cuộc đời trần tục sống một cuộc đời thanh tịnh, đạo hạnh tham gia hoạt động chính trị.