- 01. Luân hồi
- 02. Hiện tượng khi chết
- 03. Con người và nghiệp quả
- 04. Nghiệp Sát hại
- 05. Nghiệp quả và Tướng diện
- 06. Nghiệp quả vả Sức khỏe
- 07. Nghiệp quả và Tài năng
- 08. Nghiệp quả và Nhân cách
- 09. Nhân cách và Tình cảm
- 10. Biệt Nghiệp và Cộng Nghiệp
- 11. Chuyển Nghiệp
- 12. Tôn giả Xá Lợi Phất (Đệ nhất trí huệ)
- 13. Tôn giả Mục Kiền Liên (Đệ nhất thần thông)
- 14. Tôn giả Đại Ca Diếp (Đệ nhất tu khổ hạnh)
- 15. Tôn giả Ca Chiên Diên (Đệ nhất luận nghị)
- 16. Tôn giả Phú Lâu Na (Đệ nhất thuyết pháp)
- 17. Tôn giả A Na Luật (Đệ nhất thiên nhãn)
- 18. Tôn giả A Nan (Đệ nhất đa văn)
- 19. Tôn giả La Hầu La (Đệ nhất mật hạnh)
- 20. Tôn giả Tu Bồ Đề (Đệ nhất giải Không)
- 21. Tôn giả Ưu Bà Ly (Đệ nhất trì giới)
Lê Sỹ Minh Tùng
10. Biệt Nghiệp và Cộng Nghiệp
Tháng
12 năm 2004, một cơn động đất dữ dội kéo theo những ngọn
sóng thần khủng khiếp đã tàn phá không biết bao nhà cửa
và giết chết trên trăm ngàn người dọc theo bờ biển
các nước Thái Lan, Nam Dương và Tích Lan. Ngoài số người
chết nằm la liệt, các bệnh viện không còn một chỗ trống
vì số người bị thương mỗi ngày mỗi tăng. Chưa hết, mùa
thu năm 2005, cơn bão Katrina đã tàn phá nhiều thành phố dọc
theo vịnh Mễ Tây Cơ của Hoa Kỳ và chính cơn bão nầy cũng
giết chết và làm bị thương rất nhiều người mà cho đến
ngày nay chính phủ Hoa Kỳ vẫn chưa thể tái thiết trở lại.
Trước những tai họa chung đó, nhà Phật gọi chúng là cộng
nghiệp.
Như
thường lệ, cứ mỗi sáng ông B đi tản bộ chung quanh khu
phố nhà ông. Nhưng sáng nay vì sương mù dày đặc nên một
chiếc xe không thấy ông băng qua đường nên đụng làm ông
chết tại chỗ. Trường hợp cái chết của ông B là biệt
nghiệp. Đối với biệt nghiệp thì vấn đề trở nên đơn
giản vì nghiệp ai đã gieo thì chỉ người ấy chịu, nhưng
trước một tai họa chung thì sự việc phức tạp hơn nhiều.
Thế thì Luật Nghiệp Quả giải thích cách nào? Không lẽ
tất cả những người bất hạnh kia trong quá khứ đã xúm
nhau làm chung một điều ác?
Thật
ra thì không nhất thiết là một nghiệp ác đời nầy sẽ
sinh ra quả báo ở đời sau mà Luật Nghiệp Báo đã sắp xếp
quả báo của mọi người một cách rõ ràng từ nhiều trăm
năm về trước để khiến họ sống quay quần với nhau dọc
theo bờ biển, hoặc có những người ở nước khác thì nhân
duyên cũng khiến họ đi du lịch đến những nơi nầy. Thật
vậy, chính nghiệp đã thúc đẩy những người có quả báo
giống nhau đã tìm về ở chung một môi trường với nhau.
Ví dụ có khoảng vài ngàn người trong quá khứ tạo nghiệp
ác ởr ải rác khắp nơi trên thế giới mà quả báo của
họ khá giống nhau là phải chịu chôn vùi theo dòng nước
bùn dưới chân một ngọn núi.
Nhưng
nhân duyên để họ quay quần về sống gần nhau dưới chân
núi cần phải một thời gian là vài trăm năm sau, do đó khi
mới đây chúng ta thấy trận nước bùn chôn người tại
một hòn đảo ở Phi Luật Tân là có sự chuẩn bị nhiều
trăm năm của Luật Nghiệp Báo mà thôi. Chưa chắc là những
nạn nhân nầy đã từng tạo chung một nghiệp ác trong quá
khứ. Có thể mỗi người tạo riêng cho mình mỗi nghiệp ác
nặng nhẹ khác nhau, nhưng tất cả đều chiêu thành một quả
báo giống nhau nên nghiệp duyên đã thúc đẩy họ cùng định
cư chung quanh bờ biển hay ngọn núi. Vì thế người nghiệp
nặng thì chết, người nghiệp nhẹ hơn thì bị gãy chân,
gãy tay, hay chỉ bị xây xát mà thôi.
Cũng
có trường hợp nhiều người cùng chung tạo nghiệp, nhưng
vì thiếu nhân duyên để gặp gỡ nên họ chia ra nhận quả
báo riêng rẻ mỗi nơi khác nhau mặc dù quả báo khá giống
nhau. Ví dụ, hai người bạn cùng phát tâm xây một cây cầu
nhỏ cho dân làng đi lại dễ dàng trong mùa mưa. Vì đây là
nghiệp thin, nhưng do tư tưởng và một số nghiệp khác không
giống nhau nên đời sau một người sinh ra ở Việt Nam còn
người kia sinh ra ở Mỹ. Mặc dù sanh ra trong hai hoàn c???nh
khác nhau, nhưng hai người đều thích học ngành xây dựng
cầu cống và thành công giàu có gần như nhau.
Một
hôm, Đức Phật đang ngồi trên núi Linh Thứu thì có nhiều
đoàn tỳ kheo đi thiền hành. Đoàn thứ nhất gồm một số
tỳ kheo đi theo tôn giả Xá Lợi Phất, đoàn thứ hai đi theo
tôn giả Mục Kiền Kiên, đoàn thứ ba đi theo tôn giả Đại
Ca Diếp, đoàn thứ tư đi theo tôn giả A Na Luật, đoàn thứ
năm đi theo tôn giả Ưu Bà Ly và đoàn thứ sáu đi theo sau
Đề Bà Đạt Đa. Khi đó Đức Phật mới nói với các tỳ
kheo đang ở bên cạnh rằng:
- Những tỳ kheo cùng đi theo Xá Lợi Phất là những tỳ kheo có trí tuệ lớn. Những tỳ kheo cùng đi với Mục Kiền Liên là những tỳ kheo có đại thần thông. Những tỳ kheo đi theo Đại Ca Diếp là những tỳ kheo thích tu khổ hạnh đầu đà… Còn những tỳ kheo mà đi theo Đề Bà Đạt Đa là những tỳ kheo có tâm ác dục.
Và
Đức Phật đã kết luận rằng:
- Ai cùng đi theo người nào là đã có cái nghiệp chung với
người đó. Những tỳ kheo đi theo tôn giả Xá Lợi Phất có
cái nghiệp chung, tức là cộng nghiệp với Ngài về trí
tuệ. Những tỳ kheo đi theo tôn giả Mục Kiền Liên là có
nghiệp chung với Ngài về thần thông… Cho tới các tỳ kheo
đi theo Đề Bà Đạt Đa cùng có nghiệp chung về ác dục.
Cái nghiệp chung đó có từ quá khứ, hiện tại và vị lai.
Ngày
nay, chúng ta thấy cộng nghiệp hiển hiện rất thực tế và
cụ thể. Người thích cờ bạc thì chỉ muốn giao du với
người chơi cờ bạc, còn kẻ ham rượu chè thì lân cận ăn
chơi với người uống rượu. Người thích đi chùa tụng kinh
niệm Phật thì kết bạn với người đi chùa tụng kinh niệm
Phật. Như vậy, cộng nghiệp đưa đẩy con người thân cận,
kết bạn với nhau và biệt nghiệp khiến chúng ta có dáng
mạo, tánh tình, năng khiếu và trí tuệ khác nhau.
Trong
số những nhà tiên tri lừng danh trên thế giới, chúng ta thấy
ở Pháp vào khoảng thế kỹ thứ 16 có Nostradamus (1503-1566),
còn ở Việt Nam có trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585).
Những vị tiên tri nầy có khả năng tiên đoán những sự
việc sẽ xảy ra rất lâu chứng tỏ rằng Luật Nghiệp Báo
đã sắp xếp quả báo của mọi người khá rõ ràng từ nhiều
trăm năm, có khi từ nhiều ngàn năm, về trước. Chính Nostradamus
có một sự nhạy cảm tâm linh cao độ khiến ông đã đọc
được nhiều tiên đoán cho dù nó chưa có dấu hiệu nào nơi
không gian hiện hữu cả.
Đất
nước Việt Nam chúng ta là nơi đầy long mạch và tụ khí
nên ngày xưa Cao Biền cởi hạc đi đến đâu là ếm long huyệt
đến đó. Năm 785, Thiền Sư Định Không (730-808) nhân cho đào
đất để đắp nền dựng chùa Dịch Bảng, Thiền Sư tìm
thấy 10 chiếc khánh và một chiếc lư hương. Nhưng khi đem
xuống sông để rửa thì một chiếc khánh chìm xuống nước.
Cảm ứng việc nầy, Thiền Sư thánh nhập xuất khẩu nói
rằng: mười chiếc là thập khẩu, viết chung lại là chữ
Cổ, một chiếc rơi xuống chìm đi là thủy khử viết chung
lại là chữ Pháp, cho nên Thiền Sư đặt tên cho mảnh đất
thiêng liêng nầy là Cổ Pháp. Thiền Sư làm một bài thơ tiên
tri 200 năm sau, nhà Lý sẽ làm vua, xuất thân từ làng Cổ
Pháp:
Đất trình pháp khí
Phẩm chất tinh đồng
Đưa Phật giáo đến chổ hưng long
Đặt tên là làng Cổ Pháp
Pháp khí xuất hiện
Mười chiếc chuông đồng
Nhà Lý hưng vương
Tám
phẩm thành công
Trước
khi viên tịch, Thiền Sư Định Không dặn đệ tử là Thiền
Sư Thông Biện rằng: ”Đất Cổ Pháp nầy rất quan trọng,
sau nầy có dị nhân đến phá hoại thì bậc vĩ nhân không
thể xuất thế để cứu nước và làm cho Phật pháp hưng
thịnh”. Thiền Sư Thông Biện ghi lời thầy dạy trong
một ngôi tháp được dựng lên để thờ Thiền Sư Định
Không ở phía Tây chùa Lục Tổ. Trước khi qua đời, Thiền
Sư Thông Biện lại dặn cho đệ tử là Thiền Sư La Quý An
(852-936). Quả nhiên năm 865, tức là khoảng 100 năm sau lời
tiên tri của Thiền Sư Định Không, Cao Biền qua Giao Châu và
sai đắp thành ở sông Tô Lịch mới biết là đất làng Cổ
Pháp có khí đế vương nên đã cho đào 19 địa điểm để
yểm phá. Thiền Sư La Quý An biết được và y theo lời Tổ
dạy đã cho lấp lại 19 cái huyệt mà Cao Biền đã đào để
yểm.
Y như
lời tiên tri Thiền Sư Định Không trên 200 năm trước, năm
1010, Lý Công Uẩn lên ngôi vua dựng lên nhà Lý và truyền
được 8 đời (8 phẩm thành công).
Xin
nói thêm, vua Lý Thái Tổ tức Lý Công Uẩn, người sáng lập
ra triều đại thịnh vượng và huy hoàng nhất trong lịch sử
Việt Nam, người làng Cổ Pháp, huyện Từ Sơn, Bắc Ninh lại
là con không có cha. Tục truyền rằng, mẹ là Phạm Thị một
hôm đi chơi chùa Tiêu Sơn nằm mộng đi lại với thần nhân
rồi về có thai và sinh ra được đứa con trai. Khi đứa bé
lên ba tuổi thì đem cho nhà sư ở chùa Cổ Pháp tên là Lý
Khánh Vân làm con nuôi và đặt tên là Lý Công Uẩn. Nhà sư
Lý Khánh Vân sau nầy là Sư Vạn Hạnh. Công Uẩn lớn lên
vào Hoa Lư làm quan nhà tiền Lê đến chức Tả Thân Điện
Tiền Chỉ Huy Sứ. Khi Lê Long Đỉnh mất thì Lý Công Uẩn
đã ngoài 35 tuổi. Lúc bấy giờ lòng người đã oán hận
nhà tiền Lê nên ở trong triều có bọn Đào Cam Mộc cùng
với Sư Vạn Hạnh mưu tôn Lý Công Uẩn lên làm vua. Vua Lý
Thái Tổ thấy đất Hoa Lư chật hẹp bèn định đời đô
về La Thành. Tháng 7 năm 1010 thì khởi sự dời đô,
Nhưng
khi ra đến La Thành, Thái Tổ nằm mộng thấy rồng vàng hiện
ra bèn đổi tên là thành Thăng Long, tức là Hà Nội ngày nay.
Sau đó nhà vua cũng nằm mộng thấy Phật Bà hiện ra nên xuống
chỉ làm ra chùa một cột mà vẫn còn là một kỳ quan tại
Hà Nội bây giờ. Triều đại nhà Lý kéo dài đến đời thứ
bảy là vua Lý Huệ Tông thì ông vua nầy không có con trai mà
thường hay bịnh hoạn và thỉnh thoảng lại nổi cơn điên
nên cứ uống rượu say ngủ cả ngày. Nhà vua chỉ có hai công
chúa, người chị thì gã cho Trần Liêu còn người em là Chiêu
Thánh công chúa tên là Phật Kim thì mới lên 7 tuổi được
lập làm Thái tử. Tháng 10 năm 1224, vua Huệ Tông truyền ngôi
cho Chiêu Thánh công chúa rồi vào ở chùa Chân Giáo để đi
tu. Chiêu Thánh công chúa lên ngôi tức là vua Lý Chiêu Hoàng
và là vị vua cuối cùng của triều Lý.
Bấy
giờ mọi việc triều chính đều nằm trong tay Trần Thủ Độ
mà Thủ Độ lại tư thông với Trần Thái Hậu và cho cháu
là Trần Cảnh vào làm chức Chính Thủ. Đến tháng chạp thì
Chiêu Hoàng lấy Trần Cảnh và truyền ngôi cho chồng. Nhà
Lý đến đây là hết, làm vua được 216 năm và truyền ngôi
được 8 đời. Một hôm Huệ Tông đang nhổ cỏ ở sân chùa
Chân Giáo, Trần Thủ Độ đi qua trông thấy, mới nói rằng: ”Nhổ
cỏ thì phải nhổ cả rể cái nó đi”. Huệ Tông nghe thế,
phủi tay đứng dậy nói rằng: ”nhà ngươi nói ta hiểu rồi”.
Được vài ngày, Thủ Độ cho người mời Huệ Tông, Huệ
Tông biết, vào nhà sau thắt cổ tự vận. Năm Ất Dậu, 1225
Trần Cảnh lên ngôi lúc mới 8 tuổi lấy hiệu là Trần Thái
Tông để khai nguyên cho cơ nghiệp của nhà Trần.
Trở
lại vần đề Nghiệp Quả thì hiện nay có một tai họa chung
mà toàn thể nhân loại phải gánh chịu đó là ngày tận thế.
Vào năm 1988 có một vẫn thạch lớn cắt ngang quỹ đạo của
địa cầu tại một nơi mà địa cầu vừa mới đi qua, Các
nhà thiên văn còn e ngại một sự gặp gỡ tương tự như
thế xảy ra vào lúc khác. Nếu có sự va chạm lớn như vậy,
chắc chắn đó là ngày tận thế của nhân loại cũng như
trên 65 triệu năm về trước, những vẫn thạch đã tiêu diệt
tất cả mọi loài khủng long. Thêm nữa với những kho nguyên
tử mà con người tồn trữ ngày nay đủ sức tàn phá và tiêu
diệt toàn thể nhân sinh trong trái đất nầy nếu con người
cứ mãi điên cuồng chạy theo để thỏa mãn lòng tham vô đáy
của họ. Thật ra tận thế là một quả báo chung của toàn
thể nhân loại vì sự sống của mình mà con người thường
xuyên tạo các nghiệp phá hoại sự sống lẫn nhau.