- Từ Phẩm 01 Đến Phẩm 10
- Từ Phẩm 11 Đến Phẩm 16
- Từ Phẩm 17 Đến Phẩm 19
- Từ Phẩm 20 Đến Phẩm 22
- Từ Phẩm 23 Đến Phẩm 24
- Từ Phẩm 25 Đến Phẩm 26
- Từ Phẩm 27 Đến Phẩm 29
- Từ Phẩm 30 Đến Phẩm 31
- Từ Phẩm 32 Đến Phẩm 33
- Phẩm 34: Phẩm Đẳng kiến
- Từ Phẩm 35 Đến Phẩm 37
- Từ Phẩm 38 Đến Phẩm 39
- Từ Phẩm 40 Đến Phẩm 41
- Từ Phẩm 42 Đến Phẩm 43
- Từ Phẩm 44 Đến Phẩm 45
- Từ Phẩm 46 Đến Phẩm 48
- Từ Phẩm 49 Đến Phẩm 50
- Từ Phẩm 51 Đến Phẩm 52
Việt dịch: Hòa thượng Thích Thanh Từ - Hiệu đính: Hòa thượng Thích Thiện Siêu
Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam - PL 2541 - TL 1997
TẬP 1
Tự
quy đấng Năng Nhân thứ bảy,
Diễn
nói pháp Hiền Thánh Vô Thượng
Ở
mãi trong sông dài sanh tử,
Thế
Tôn nay vì độ chúng sanh,
Tôn
trưởng Ca-diếp và Chúng tăng,
Hiền
triết A-nan nghe vô lượng,
Thiện
Thệ nhập diệt lưu xá lợi,
Từ
nước Câu-di đến Ma-kiệt,
Ca-diếp
suy từ hành tứ đẳng,
Chúng
sanh này đọa lạc năm đường,
Chánh
Giác giảng đạo nay qua đời,
Nhớ
Ngài khéo dạy, lòng thương khóc.
Ca-diếp
suy nghĩ gốc Chánh pháp,
Làm
sao lưu bố lâu ở đời,
Thế
Tôn nói bao nhiêu lời dạy,
Tổng
trì gìn giữ, chẳng lọt mất.
Ai
có sức này gom các pháp,
Nơi
nơi chỗ chỗ gốc nhân duyên?
Nay
trong chúng này, bậc Trí tuệ,
A-nan
hiền thiện nghe vô lượng,
Liền
đánh kiền chùy nhóm bốn bộ,
Tỳ-kheo
tám vạn bốn ngàn chúng,
Ðều
đắc La-hán, tâm giải thoát,
Ðã
thoát trói buộc, làm ruộng phước.
Ca-diếp
thương xót cho người đời,
Càng
nhớ đền ơn Phật quá khứ,
Thế
Tôn truyền pháp cho A-nan,
Mong
quảng bá pháp mãi ở đời,
Làm
sao lần lượt không mất mối,
Ba
A-tăng-kỳ nhóm pháp báu,
Khiến
sau bốn bộ được nghe pháp,
Ðã
nghe liền được lìa các khổ.
A-nan
từ chối: 'Tôi chẳng kham,
Chư
pháp sâu xa bao nhiêu loại,
Há
dám phân biệt Pháp Như Lai,
Phật
pháp công đức trí vô lượng.
Nay
ngài Ca-diếp kham nhận nổi,
Thế
Hùng đem pháp trao kỳ cựu,
Ðại
Ca-diếp nay vì mọi người,
Như
Lai tại thế mời nửa tòa.'
Ca-diếp
đáp rằng: 'Tuy có thể,
Tuổi
già suy yếu, quên mất nhiều,
Nay
Ông tổng trì nghiệp trí tuệ,
Khiến
được gốc pháp hằng ở đời,
Nay
ta có ba mắt thanh tịnh,
Cũng
lại hay biết tha tâm trí,
Tất
cả chúng sanh bao nhiêu loại,
Không
ai hơn được A-nan'.
Phạm
Thiên giáng xuống cùng Ðế Thích
Tứ
thiên hộ thế và chư Thiên
Di-lặc
Ðâu-suất tìm đến họp,
Bồ-tát
mấy ức không thể kể.
Di-lặc,
Phạm, Thích và Tứ Vương
Ðều
cùng chắp tay mà bày tỏ:
'Tất
cả các pháp Phật đã ấn:
'A-nan
là pháp khí của Ta',
Nếu
Ngài chẳng muốn Pháp còn mãi,
Tức
làm tổn hoại pháp Như Lai,
Nguyện
giữ bổn yếu vì chúng sanh,
Cứu
được nguy ách, độ các nạn.
Ðức
Phật ra đời thọ quá ngắn,
Nhục
thể tuy chất, pháp thân còn,
Nếu
khiến gốc Pháp không đoạn tuyệt,
A-nan
chớ từ chối thuyết pháp'.
Ca-diếp
tối tôn và Thánh chúng,
Di-lặc,
Phạm, Thích và Tứ Vương,
Tha
thiết thỉnh cầu A-nan nói
Khiến
giáo pháp Phật chẳng diệt tận.
A-nan
nhân hòa đủ tứ đẳng,
Ý
chuyển sư tử hống nhiệm mầu,
Nhìn
khắp bốn bộ, ngắm hư không,
Thương
khóc lệ trào không dừng được.
Liền
vận quang minh và vẻ mặt,
Chiếu
khắp chúng sanh như mặt trời,
Di-lặc
thấy (ánh) sáng cùng Thích, Phạm,
Thu
xả đợi nghe Pháp vô thượng,
Bốn
bộ lặng lẽ chuyên một lòng,
Muốn
được nghe Pháp, ý chẳng loạn,
Tôn
trưởng Ca-diếp và Thánh chúng,
Nhìn
thẳng thấy mặt, mắt không chớp.
Rồi
A-nan thuyết kinh vô lượng.
Ai
hay đầy đủ góp một nhóm:
'Nay
tôi sẽ chia làm ba phần,
Tạo
lập mười kinh làm một kệ.
Khế
kinh phần một, Luật phần hai,
Kinh
A-tỳ-đàm là phần ba.
Ba
Phật quá khứ đều chia ba,
Khế
kinh, Luật, Pháp là ba tạng,
Khế
kinh nay sẽ phân bốn đoạn,
Kế
là Tăng Nhất, hai là Trung,
Ba
gọi là Trường, nhiều anh lạc,
Tạp
kinh sau cùng là bốn phần'.
Tôn
giả A-nan nghĩ thế này:
'Pháp
thân Như Lai chẳng hư hoại,
Còn
mãi ở đời, không dứt mất,
Trời,
Người được nghe thành đạo quả.
Hoặc
có một pháp nghĩa cùng sâu
Khó
giữ, khó tụng chẳng thể nhớ,
Nay
ta sẽ nhóm nghĩa một pháp,
Mỗi
mỗi theo nhau chẳng mất mối.
Cũng
có hai pháp lại thành hai,
Ba
pháp thành ba như xâu chuỗi,
Bốn
pháp thành bốn, năm cũng thế,
Năm
pháp đến sáu, sáu đến bảy,
Tám
pháp nghĩa rộng, chín tiếp theo,
Mười
pháp từ mười đến mười một.
Như
thế pháp bảo trọn chẳng quên,
Cũng
hằng ở đời, tồn tại mãi,
Ở
trong đại chúng nhóm pháp này'.
Tức
thời A-nan lên pháp tòa,
Di-lặc
khen 'Lành, hay thay!', nói:
'Các
pháp nghĩa hợp nên phối lại,
Còn
các pháp nên phân bộ.
Thế
Tôn nói Pháp mỗi mỗi khác,
Bồ-tát
phát ý hướng đại thừa,
Như
Lai thuyết đây các thứ khác,
Nhân
Tôn thuyết lục độ không cùng,
Bố
thí, trì giới, nhẫn, tinh tấn,
Thiền,
trí tuệ như trăng đầu tháng,
Chóng
độ vô cực quán các pháp.
Có
người dũng mãnh cho đầu mắt,
Thân
thể, máu thịt, không luyến tiếc,
Vợ,
hầu, nước, của và trai, gái,
Ðây
gọi đàn độ chẳng nên bỏ.
Giới
độ vô cực như kim cương,
Không
hủy, không phạm, không sót mất,
Trì
tâm giữ giới như bình gốm,
Ðây
gọi giới độ không nên bỏ.
Hoặc
có người đến cắt tay chân,
Chẳng
khởi giận dữ, sức nhẫn mạnh,
Như
biển bao dung không tăng giảm,
Ðây
gọi nhẫn độ không nên bỏ,
Những
người tạp tác hành thiện ác,
Thân,
miệng, ý đều không biết chán,
Ngăn
người các hạnh không đến đạo,
Ðây
gọi tần độ không nên bỏ.
Các
vị tọa thiền thở ra vào,
Tâm
ý vững chắc không loạn niệm,
Dù
cho đất động, thân chẳng nghiêng,
Ðây
gọi thiền độ không nên bỏ.
Lấy
sức trí huệ biết trần số,
Kiếp
số triệu năm không thể kể,
Thanh
thản nghiệp tụ ý chẳng loạn,
Ðây
gọi trí độ chẳng nên bỏ.
Chư
pháp thậm thâm luận lý không,
Khó
sáng, khó rõ, không thể quán,
Về
sau hậu tấn ôm hoài nghi,
Ðây
đức Bồ-tát không nên bỏ'.
A-nan
tự trình bày ý này:
'Hạnh
Bồ-tát, kẻ ngu không tin,
Trừ
các La-hán tin giải thoát,
Ðó
là có tin không do dự.
Chúng
của bốn bộ phát ý đạo,
Cùng
với tất cả loài chúng sanh,
Họ
có tin chắc không hồ nghi,
Họp
các pháp này làm phần một'.
Di-lặc
khen: 'Lành, hay thay!' nói:
'Phát
thú đại thừa ý rất rộng,
Hoặc
có các pháp đoạn kiết sử,
Hoặc
có các pháp thành đạo quả'.
A-nan
thuyết rằng: Ðây thế nào,
Tôi
thấy Như Lai giảng pháp này.
Có
pháp chẳng nghe từ Như Lai,
Pháp
này há sai, nên có nghi.
Dù
tôi nói thấy, nghĩa này sai,
Với
chúng tương lai liền bị hỏng,
Nay
nói chư kinh nghe như thế,
Chỗ
Phật đang ở, thành, quốc độ,
Nước
Ba-la-nai thuyết pháp đầu,
Nước
Ma-kiệt độ ba Ca-diếp,
Thích-sí,
Câu-tát, Ca-thi-quốc,
Chiêm-bà,
Câu-lưu, Tỳ-xá-ly,
Thiên
Cung, Long Cung, A-tu-la,
Càn-thát-bà
cùng thành Câu-thi,
Cho
dù không được chỗ thuyết kinh,
Sẽ
nói nguyên gốc tại Xá-vệ.
Tôi
được theo nghe việc một thời,
Phật
tại Xá-vệ cùng đệ tử,
Tinh
xá Kỳ-hoàn tu thiện nghiệp,
Trưởng
giả Cô Ðộc dâng cúng vườn.
Lúc
Phật tại đó dạy Tỳ-kheo,
Nên
tu một pháp chuyên nhất tâm,
Suy
nghĩ một pháp không phóng dật,
Một
pháp là gì? Là niệm Phật,
Niệm
Pháp, niệm Tăng và niệm Giới,
Niệm
Thí, rồi tiếp đến niệm Thiên,
Niệm
Thơ An-ban và niệm Thân,
Niệm
Chết, trừ loạn là mười niệm,
Ðây
gọi là mười niệm lại có mười.
Sau
đó sẽ nói đệ tử Phật,
Trước
dạy Câu-lân thành đệ tử,
Cuối
cùng nhỏ nhất là Tu-đạt
Dùng
phương tiện này rõ một pháp.
Hai
theo hai pháp, ba theo ba,
Bốn,
năm, sáu, bảy, tám, chín, mười,
Mười
một pháp này đều rõ hết,
Từ
một tăng một đến các pháp,
Nghĩa
nhiều, huệ rộng chẳng thể tận,
Mỗi
một khế kinh nghĩa cùng sâu,
Thế
nên gọi là Tăng Nhất Hàm.
Nay
tìm một pháp khó rõ sáng,
Khó
trì, khó hiểu, chẳng thể minh,
Tỳ-kheo
tự xưng công đức nghiệp,
Nay
nên xưng là Tôn đệ nhứt.
Ví
như thợ gốm làm đồ vật,
Tùy
ý mà làm không hồ nghi,
Như
thế a-hàm Tăng Nhất pháp,
Ba
thừa giáo hóa không sai biệt,
Kinh
Phật vi diệu rất thâm sâu,
Năng
trừ kiết sử như sông chảy,
Nhưng
Tăng Nhất này là trên hết,
Hay
sạch ba nhãn, trừ ba cấu.
Có
ai chuyên tâm trì Tăng Nhất,
Liền
là tổng trì Như Lai tạng,
Dù
thân này chưa hết kiết sử,
Ðời
sau liền được tài trí cao.
Nếu
có người viết chép kinh quyển,
Lọng
hoa, tơ lụa đem cúng dường,
Phước
này vô lượng không thể kể
Vì
pháp báu này khó gặp vậy'
Thuyết
lời này rồi đất chấn động,
Mưa
trời hoa hương phủ đến gối,
Chư
Thiên trên không khen 'Lành thay!'.
Lời
Thượng Tôn thuyết trọn thuận nghĩa,
Khế
kinh tạng một, Luật tạng hai,
Kinh
A-tỳ-đàm là tạng thứ ba,
Phương
Ðẳng đại thừa nghĩa thâm thúy,
Cùng
các khế kinh là tạp tạng,
An
xử lời Phật trọn chẳng khác,
Nhân
duyên gốc ngọn đều tùy thuận,
Di-lặc,
chư Thiên đều khen lành,
Kinh
Phật Thích-ca còn được lâu.
Di-lặc
đứng lên tay cầm hoa,
Hoan
hỉ đem rải lên A-nan,
Kinh
nầy đúng thật Như Lai thuyết,
Khiến
A-nan tầm đạo quả thành.
Bấy giờ Tôn giả A-nan cùng Phạm thiên và các Phạm Ca-di thiên đều đến tụ hội. Hóa tự tại thiên cùng quyến thuộc đều đến tụ hội. Tha hóa tự tại thiên cùng tùy tùng đến tụ hội. Ðầu-suất thiên vương cùng chúng thiên đều đến tụ hội. Diệm thiên cùng các tùy tùng đều đến tụ hội. Thích-đề-hoàn-nhân cùng chư thiên cõi Ba mươi ba đồng đến tụ hội. Ðề-đầu-lại-tra Thiên vương cùng Càn-thát-bà v.v... cùng đến tụ hội. Tỳ-lưu-lặc-xoa Thiên vương cùng đến Yểm Quỷ đều đến tụ hội. Tỳ-lưu-bạt-xoa Thiên vương đem các chúng Rồng cùng đến tụ hội. Tỳ-sa-môn Thiên vương dẫn chúng Dạ-xoa, La-sát cùng đến tụ hội.
Lúc bấy giờ Ðại sĩ Di-lặc bảo các Bồ-tát trong Hiền kiếp:
- Các Ðại sĩ hãy khuyên các thiện nam và tín nữ đọc tụng, thọ trì Tăng Nhất Tôn Pháp, giảng nói rộng rãi khiến Trời Người vâng làm.
Lúc ngài nói lời này thì chư Thiên, loài Người, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Ma-hầu-la-già, Khẩn-na-la v.v... đều tự nói:
- Chúng tôi đều cùng nhau ủng hộ thiện nam, tín nữ nào đọc tụng, thọ trì Tăng Nhất Tôn Pháp, giảng nói rộng rãi, trọn không dừng nghỉ nửa chừng.
Lúc ấy Tôn giả A-nan bảo Tôn giả Ưu-đa-la rằng:
- Nay tôi đem Tăng Nhất A-hàm này giao phó cho Hiền giả. Xin hãy khéo tụng đọc, chớ để thiếu sót. Vì sao vậy? Vì nếu có người khinh mạn tôn kinh này liền bị đọa lạc, là hạnh phàm phu. Vì cớ sao? Này Ưu-đa-la! Tăng Nhất A-hàm nêu lên lời dạy Ba mươi bảy đạo phẩm và các pháp đều do đây sanh.
Tôn giả Ðại Ca-diếp hỏi A-nan:
- Này Hiền giả A-nan, Tăng Nhất A-hàm lại có thể xuất binh Ba mươi bảy đạo phẩm và các pháp đều do đây sanh sao?
Tôn giả A-nan đáp:
- Ðúng thế! Ðúng thế! Thưa Tôn giả Ca-diếp, Tăng Nhất A-hàm xuất sanh Ba mươi bảy phẩm và các pháp đều do đây sanh. Không những thế mà chỉ một kệ trong Tăng Nhất A-hàm cũng xuất sanh ra Ba mươi bảy phẩm và các pháp.
Ngài Ca-diếp hỏi:
- Trong loại kệ nào xuất sanh ra Ba mươi bảy phẩm và các pháp?
Tôn giả A-nan liền nói bài kệ này:
Các
điều ác chớ làm,
Các
điều thiện vâng làm,
Tự
trong sạch ý mình,
Là
lời chư Phật dạy.
Vì sao thế? 'Các điều ác chớ làm' là các pháp vốn đã sanh ra các pháp lành, do sanh pháp lành mà tâm ý trong sạch. Thế nên Ca-diếp! Chư Phật Thế Tôn thân, miệng, ý thường tu thanh tịnh.
Tôn giả Ca-diếp hỏi:
- Thế nào A-nan, riêng Tăng Nhất A-hàm xuất sanh Ba mươi bảy phẩm và các pháp, còn bốn A-hàm khác cũng lại sanh ra chăng?
Tôn giả A-nan đáp:
- Không những thế, thưa Tôn giả Ca-diếp, nghĩa của bốn bộ A-hàm chỉ trong một bài kệ cũng đầy đủ lời chư Phật, lời Bích-chi Phật và Thanh văn. Vì sao thế? 'Các điều ác chẳng làm' là đầy đủ giới cấm; hạnh thanh bạch là 'các điều thiện vâng làm'. 'Tâm ý trong sạch', là tự sạch ý mình, trừ tà chấp điên đảo; 'Là lời chư Phật dạy', là bỏ các tưởng ngu dốt, nghi hoặc. Thế nào Tôn giả Ca-diếp, người giới thanh tịnh thì tâm ý của họ lại bất tịnh sao? Người mà ý thanh tịnh thì không điên đảo; vì không điên đảo nên tướng ngu hoặc diệt, Ba mươi bảy phẩm quả nhiên liền được thành tựu. Ðã thành đạo quả há chẳng phải là các pháp sao?
Tôn giả Ca-diếp hỏi:
- Thế nào A-nan, tại sao đem Tăng Nhất A-hàm này giao phó cho Ưu-đa-la mà chẳng giao cho Tỳ-kheo khác tất cả các pháp?
Tôn giả A-nan đáp:
- Tăng Nhất A-hàm tức là các pháp. Các pháp tức là Tăng Nhất A-hàm, là một chứ không có hai.
Tôn giả Ca-diếp hỏi:
- Vì những lý do nào mà đem Tăng Nhất A-hàm phó chúc cho Ưu-đa-la, không giao cho Tỳ-kheo khác?
Tôn giả A-nan đáp:
- Tôn giả Ca-diếp nên biết, chín mươi mốt kiếp xưa, đức Tỳ-bà-thi Như Lai Chí Chân Ðẳng Chánh Giác xuất hiện ở đời. Lúc đó Tỳ-kheo Ưu-đa-la này tên là Y-câu-ưu-đa-la. Lúc đó, đức Phật đã đem pháp Tăng Nhất giao phó cho người này khiến tụng đọc. Từ đây cho đến ba mươi mốt kiếp về sau, kế đó có Phật Thi-khí Như Lai Chí Chân Ðẳng Chánh Giác. Lúc đó Tỳ-kheo Ưu-đa-la này tên là Mục-già-ưu-đa-la. Thi-khí Như Lai lại đem pháp này giao phó cho người này khiến đọc tụng. Cũng chính trong ba mươi mốt kiếp kia, Tỳ-xá-phù Như Lai Chí Chân Ðẳng Chánh Giác lại xuất hiện ở đời. Lúc đó Tỳ-kheo Ưu-đa-la này tên là Long Ưu-đa-la. Ðức Phật lại lấy pháp này giao phó cho người này khiến tụng đọc.
Tôn giả Ca-diếp nên biết, trong Hiền kiếp này có Câu-lưu-tôn Như Lai Chí Chân Ðẳng Chánh Giác xuất hiện ở đời. Lúc đó Tỳ-kheo Ưu-đa-la tên Lội Ðiện Ưu-đa-la. Phật lại đem pháp này phó chúc cho người đó khiến đọc tụng. Trong Hiền kiếp này, kế đó lại có Phật Câu-na-hàm Như Lai Chí Chân Ðẳng Chánh Giác xuất hiện ở đời. Lúc đó Tỳ-kheo Ưu-đa-la tên Thiên Ưu-đa-la. Phật lại đem pháp này giao phó cho ông ta khiến đọc tụng. Trong Hiền kiếp này, kế đó lại có Phật tên Ca-diếp Như Lai Chí Chân Ðẳng Chánh Giác xuất hiện ở đời. Bấy giờ Tỳ-kheo Ưu-đa-la, tên Phạm Ưu-đa-la, Phật lại đem pháp này giao phó cho ông ta khiến tụng đọc.
Tôn giả Ca-diếp nên biết, nay Thích-ca Văn Như Lai Chí Chân Ðẳng Chánh Giác xuất hiện ở đời. Nay Tỳ-kheo này tên Ưu-đa-la. Thích-ca Văn Phật tuy đã Bát-niết-bàn nhưng Tỳ-kheo A-nan vẫn còn ở đời. Thế Tôn đem hết pháp giao phó cho tôi. nay tôi lại lấy pháp này trao cho Ưu-đa-la. Vì sao thế? Hãy xem vị này, xét biết nguồn gốc, sau đó mới truyền pháp. Vì sao? Thời quá khứ trong hiền kiếp này, Câu-lưu-tôn Như Lai Chí Chân Ðẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn xuất hiện ở đời.
Lúc đó có vua tên Ma-ha-đề-bà, lấy pháp cai trị, giáo hóa dân chúng chưa từng sai lạc, thọ mạng rất dài, đoan chánh vô song, hiếm có ở đời. Trong tám vạn bốn ngàn năm với thân đồng tử mà tự vui chơi. Trong tám vạn bốn ngàn năm dùng thân thái tử đem pháp cai trị. Trong tám vạn bốn ngàn năm lại dùng vương pháp cai trị thiên hạ.
Tôn giả Ca-diếp nên biết, lúc đó Thế Tôn dạo đi trong vườn Cam-lê, và sau khi ăn xong, như thường lệ đi kinh hành trong sân. Tôi làm thị giả. Lúc đó Thế Tôn mỉm cười, miệng phóng hào quang năm sắc. Tôi thấy vậy liền quỳ trước Thế Tôn mà bạch rằng:
'- Phật chẳng cười vô cớ, mong cho con được nghe gốc ngọn. Như Lai Chí Chân Ðẳng Chánh Giác chẳng bao giờ nói lời trống rỗng.'
Bấy giờ, thưa Tôn giả Ca-diếp, Phật bảo tôi rằng:
'- Ở đời quá khứ, trong Hiền kiếp này có Như Lai tên Câu-lưu-tôn Chí Chân Ðẳng Chánh Giác xuất hiện ở đời. Lại ở chỗ này vì các đệ tử mà thuyết pháp rộng rãi. Sau đó ở trong Hiền kiếp này, lại có Câu-na-hàm Như Lai Chí Chân Ðẳng Chánh Giác xuất hiện ở đời. Bấy giờ đức Phật ấy cũng ở chỗ này mà thuyết pháp rộng rãi. Kế nữa, trong Hiền kiếp này, Ca-diếp Như Lai Chí Chân Ðẳng Chánh Giác xuất hiện ở đời, Ca-diếp Như Lai cũng ở chỗ này mà thuyết pháp rộng rãi'.
Bấy giờ thưa Tôn giả Ca-diếp, tôi quỳ trước Phật và bạch:
'- Mong sao Thích-ca Văn Phật cũng ở chỗ này thuyết pháp đầy đủ cho các đệ tử. Chỗ này sẽ là tòa kim cương của bốn Như Lai, mãi không đoạn dứt.'
Bấy giờ, thưa Tôn giả Ca-diếp, Phật Thích-ca Văn tại chỗ ngồi ấy, bảo tôi:
'- A-nan, ngày xưa ở chỗ nầy trong Hiền kiếp, có vị vua ra đời tên Ma-ha-đề-bà trong suốt tám vạn bốn ngàn năm dùng vương pháp giáo hóa lấy đức dạy dỗ dân; trải qua nhiều năm, rồi bảo Kiếp-tỷ (người hớt tóc) rằng:
'- Nếu thấy đầu ta có tóc bạc, hãy báo cho ta hay'.
Lúc đó, người kia nghe vua ra lệnh, qua mấy năm lại thấy trên đầu vua có tóc bạc mọc, liền quỳ trước Ðại vương và bạch:
'- Ðại vương nên biết, trên đầu ngài tóc bạc đã mọc.'
Vua liền bảo người ấy:
'- Lấy nhíp vàng nhổ tóc bạc bỏ lên tay ta.'
Lúc đó, người ấy vâng lệnh lấy nhíp vàng nhổ tóc bạc. Bấy giờ Ðại vương thấy tọc bạc rồi liền nói kệ rằng:
'Bây
giờ trên đầu ta,
Ðã
sanh lông suy hao,
Thiên
sứ đã đến nơi,
Nên
ngay đây xuất gia.
Nay ta đã hưởng phước trong loài người, phải nên tự cố gắng tiến lên đức của trời, cạo bỏ râu tóc, mặt ba pháp y, đem lòng tin kiên cố xuất gia học đạo, lìa khỏi các khổ'.
Bây giờ, vua Ma-ha-đề-bà liền bảo thái tử lớn nhất tên là Trường Thọ:
'- Con có biết chăng, nay đầu ta đã sanh tóc bạc, ý ta muốn cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp ý, đem lòng tin kiên cố xuất gia học đạo, lìa khỏi các khổ. Con hãy nối ngôi, lấy pháp cai trị, giáo hóa, chớ khiến cho sai trái lời ta dạy bảo mà tạo hạnh phàm phu. Sở dĩ như thế vì nếu có người nào trái lời ta dạy, liền làm hạnh phạm phu. Phàm phu thì cứ ở mãi trong tam đồ, đầy đủ tám nạn.'
Bấy giờ, vua Ma-ha-đề-bà truyền ngôi vua cho thái tử rồi, lại đem tiền của ban cho Kiếp-tỷ (người hớt tóc) rồi ở chỗ khác cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, đem lòng tin kiên cố xuất gia học đạo, lìa khỏi các khổ, trong tám vạn bốn ngàn năm khéo tu phạm hạnh, hành Tứ đẳng tâm: từ, bi, hỉ, xả; khi thân chết, mạng chung sanh lên Phạm thiên.
Vua Trường Thọ nhớ lời cha dạy chưa hề tạm bỏ, dùng pháp cai trị không có sai lạc, chưa hết tuần lễ, liền được làm Chuyển luân Thánh vương, có đủ bảy báu.
Bảy báu là xe báu, voi báu, ngựa báu, châu báu, ngọc nữ báu, điển tạng báu, điển binh báu. Ðó là bảy báu. Lại có ngàn người con dũng mãnh, trí tuệ, hay trừ các khổ, thống lãnh bốn phương.
Rồi vua Trường Thọ dùng pháp vua trước... và làm kệ:
Nay
ở trên đầu tôi,
Ðã
sanh lông suy hao,
Sứ
trời đã lại đến,
Ðúng
lúc nên xuất gia.
'Nay ta đã hưởng phước loài Người, phải nên tự cố gắng tạo đức lên cõi Trời, cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp ý, đem lòng tin kiên cố xuất gia học đạo, lìa các thứ khổ'.
Rồi vua Trường Thọ, bảo thái tử con trưởng tên Thiện Quán:
'- Con có biết chăng, nay đầu ta đã sanh tóc bạc. Ý ta muốn cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, đem lòng tin kiên cố xuất gia học đạo, lìa hẳn các khổ. Con hãy nối ngôi ta, dùng pháp mà cai trị, chớ sai mất lời ta dạy dỗ mà tạo hạnh phàm phu. Sở dĩ như thế vì nếu có người trái lời ta dạy làm hạnh phạm phu mà hạnh phàm phu thì ở mãi trong ba đường, tám nạn.'
Và vua Trường Thọ trong tám muôn bốn ngàn năm khéo tu Phạm hạnh, hành Tứ đẳng tâm là từ, bi, hỉ, xả; khi thân chết, mạng chung sanh lên trời Phạm thiên. Còn vua Thiện Quán nhớ lời cha dạy chưa từng tạm bỏ, dùng pháp cai trị không chút sai lạc'.
Tôn giả Ca-diếp nên biết, khi đó Ma-ha-đề-bà đâu phải người nào khác, đừng có cho như thế. Vua bấy giờ nay là Phật Thích-ca Văn. Vua Trường Thọ nay là thân A-nan, còn Thiện Quán lúc đó, nay là Tỳ-kheo Ưu-đa-la, đã hằng nhân vương pháp chưa từng bỏ mất, cũng chẳng đoạn dứt. Và vua Thiện Quán lại làm hưng phục lệnh của vua cha, dùng pháp cai trị, chẳng dứt lời vua dạy. Vì sao thế? Vì lời dạy của phụ vương khó làm trái được.
Bấy giờ Tôn giả A-nan liên nói kệ:
Kính
Pháp, vâng lời Tôn,
Chẳng
quên báo ân gốc,
Lại
hay giữ ba nghiệp,
Chỗ
quý của người trí.
Tôi quán nghĩa này rồi, đem Tăng Nhất A-hàm truyền cho Tỳ-kheo Ưu-đa-la. Vì sao? Tất cả các pháp đều có lý do.
Rồi Tôn giả A-nan bảo Tôn giả Ưu-đa-la:
- Hiền giả lúc trước làm Chuyển luân Thánh vương, chẳng để mất lời vua dạy. Nay tôi lại đem pháp này trao phó cho Hiền giả, chớ để mất chánh giáo, chớ làm hạnh phàm phu. Nay Hiền giả nên biết, nếu có người trái mất thiện giáo của Như Lai, liền đọa trong cõi phàm phu. Vì sao? Lúc ấy vua Ma-ha-đề-bà không được đến chỗ rốt ráo giải thoát, chưa được giải thoát đến chỗ an ổn; tuy hưởng phước báo Phạm thiên, vẫn chẳng đến chỗ cứu cánh là thiện nghiệp của Như Lai, tức gọi là chỗ cứu cánh an ổn, an lạc vô cùng, được Trời, Người cung kính, tất sẽ được Niết-bàn. Vì thế cho nên, Ưu-đa-la! Hãy nên phụng trì pháp này, phúng tụng, đọc niệm, chớ cho thiếu sót.
Bấy giờ A-nan liền nói kệ:
Ðối
với Pháp nên niệm,
Như
Lai do đây sanh,
Pháp
hưng thành Chánh Giác,
Bích-chi,
La-hán đạo,
Pháp
hay trừ các khổ,
Cũng
hay thành kết quả.
Niệm
Pháp chẳng rời tâm,
Nay
và sau thọ báo,
Nếu
muốn thành vị Phật,
Giống
như Thích-ca Văn,
Thọ
trì ba tạng pháp,
Câu
kinh chẳng lầm loạn,
Tam
tạng tuy khó giữ,
Nghĩa
lý chẳng thể cùng,
Nên
tụng bốn A-hàm,
Liên
đoạn nẻo Nhân Thiên.
A-hàm
tuy khó tụng,
Kinh
nghĩa chẳng thể hết,
Giới
luật chớ để mất,
Ðây
là báu Như Lai.
Luật
cấm cũng khó giữ,
A-hàm
cũng như thế,
Giữ
vững A-tỳ-đàm,
Hàng
phục thuật ngoại đạo,
Tuyên
dương A-tỳ-đàm,
Nghĩa
này cũng khó giữ.
Nên
tụng ba A-hàm
Chẳng
mất câu của kinh.
Khế
kinh, A-tỳ-đàm,
Giới
luật lưu bố đời,
Người,
Trời được vâng làm,
Liền
sanh chỗ an ổn.
Nếu
không pháp khế kinh,
Cũng
lại không giới luật,
Như
mù lao vào tối,
Lúc
nào mới thấy sáng?
Lấy
đây giao phó ông,
Cùng
với bốn bộ chúng,
Nên
giữ chớ coi thường,
Ðối
với Phật Thích-ca.
Khi Tôn giả A-nan nói lời này, trời đất sáu phen chấn động. Các bậc Trời, Thần ở hư không, tây cầm hoa trời rải trên Tôn giả A-nan, và tung vào khắp trong bốn bộ chúng. Tất cả Trời, Rồng, Quỷ, Thần, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già v.v... đều mừng rỡ và khen:
- Lành thay, lành thay, Tôn giả A-nan!
Những lời trước và sau đều lành. Ðối với pháp nên cung kính, thật như đã nói. Chư Thiên và Người đời không ai không từ pháp mà được thành tựu. Nếu ai làm ác phải đọa địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
Lúc bấy giờ, Tôn giả A-nan ở trong bốn bộ chúng, cất tiếng rống của sư tử, khuyên tất cả mọi người phụng hành pháp này.
Bấy giờ trên tòa, ba vạn Trời Người được pháp nhãn thanh tịnh.
Bấy giờ bốn bộ chúng, chư Thiên, Người đời nghe Tôn giả thuyết xong, vui vẻ vâng làm.