Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bồ Đề Tâm Thành Tựu Vô Lượng Vô Biên Công Đức

11 Tháng Ba 202216:17(Xem: 1808)
Bồ Đề Tâm Thành Tựu Vô Lượng Vô Biên Công Đức

Bồ Đề Tâm Thành Tựu Vô Lượng Vô Biên Công Đức

Nguyễn Thế Đăng

bo de tam

 

Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm:

“Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnhBa đời chư Phật từ Bồ đề tâm mà xuất sanh. Vì thế nên nếu có ai phát tâm Vô thượng Bồ đề tức là đã xuất sanh vô lượng công đức, có thể nhiếp giữ khắp đạo Nhất thiết trí.

Thiện nam tử! Ví như có người được thuốc vô úy thì lìa năm sợ hãi: lửa không thiêu được, độc không hại được, dao không đứt được, nước không trôi được, khói không xông được. Cũng vậy, đại Bồ tát được thuốc Bồ đề tâm Nhất thiết trí thì lửa tham không thiêu, độc sân không hại, dao mê lầm không đứt, dòng sanh tử không cuốn trôi, khói tìm tòisuy nghĩ không xông được.

Ví như có người được thuốc giải thoát, thì vĩnh viễn không hoạn nạn. Cũng vậy, đại Bồ tát được thuốc trí giải thoát Bồ đề tâm thì lìa hẳn sanh tử hoạn nạn.

Ví như có người cầm giữ thuốc Vô thắng, tất cả oán địch không ai thắng nổi. Cũng vậy, đại Bồ tát cầm giữ thuốc vô thắng Bồ đề tâm thì hàng phục được tất cả ma quân.

Ví như có người cầm giữ thuốc Thiện kiến, trừ được tất cả bệnh tật mình có. Cũng vậy, đại Bồ tát cầm giữ thuốc thiện kiến Bồ đề tâm, trừ hết tất cả các bệnh phiền não…

(Phẩm Nhập pháp giớiKinh Hoa Nghiêm)

Trước hết, chúng ta thấy ở phần này, Bồ đề tâm cũng được ví như thuốc, hương, hoa, cây cối, đèn, kim cương… nhưng câu nói dài hơn, như vậy Bồ đề tâm được giảng rộng hơn và sâu hơn.

Bồ đề tâm trừ tất cả phiền não, các hoạn nạn, các quân ma… có trong tất cả các cõi sanh tửBồ đề tâm là thuốc cho tất cả chúng sanh, chữa lành tất cả các bệnh trong sanh tử.

Trong đoạn này, có hai lần nói đến Nhất thiết tríđạo Nhất thiết trí và Bồ đề tâm Nhất thiết tríBồ đề tâm gắn với Nhất thiết trí, mà Nhất thiết trí là Bồ đề tâm tuyệt đối. Như thế trong phần này, ngay từ đầu Bồ đề tâm tương đối do vị Bồ tát phát nguyện và thực hành đã được gắn liền với Bồ đề tâm tuyệt đối hay Nhất thiết trí của các bậc Giác ngộ.

Như hương hắc chiên đàn trên trời, nếu đốt một chỉ, mùi hương xông khắp tiểu thiên thế giớigiá trị của tất cả trân bảo trong tam thiên thế giới đều không bằng. Cũng vậy, hương Bồ đề tâm của đại Bồ tát trong một niệm công đức xông khắp pháp giới, tất cả công đức Thanh VănĐộc Giác đều không bằng được.

Như nơi hải đảo mọc cây Gia tử, rễ, thân, cành, lá, hoa, quả, tất cả chúng sanh thường lấy thọ dụng không lúc nào hết. Cũng vậy, Bồ đề tâm của đại Bồ tát, từ lúc phát khởi tâm bi nguyện cho đến thành Phậtchánh pháp trụ thế luôn thường lợi ích cho tất cả thế gian không hề cách ngưng.

Như tim đèn, tùy theo lớn nhỏ mà phát ánh sáng, nếu thêm dầu thì ánh sáng không bao giờ dứt. Cũng vậy, đèn Bồ đề tâm của đại Bồ tát đại nguyện làm tim ánh sáng chiếu pháp giới, thêm dầu đại bigiáo hóa chúng sanhtrang nghiêm cõi nước, thi hành Phật sự không thôi dứt…”

Bồ đề tâm là đèn ánh sáng trí huệ chiếu pháp giớiđại nguyện làm tim đèn, cháy mãi bằng dầu đại bi, để làm Phật sự là “tịnh Phật quốc độ, thành tựu chúng sanh.” Cả ba thí dụ đều nói trí huệ, nguyện và tâm bi của Bồ tát không thôi dứt, không cách ngưng, tỏa khắp pháp giới làm lợi lạc cho tất cả chúng sanh. Như thế tầm ảnh hưởng và công việc của Bồ đề tâm là khắp cả pháp giới và Bồ đề tâm của Bồ tát là phương tiện trí, nguyện và bi để nhập pháp giới.

Như người giỏi phương pháp thu phục rồng, ở giữa loài rồng mà vẫn tự tại. Cũng vậy đại Bồ tát được pháp Bồ đề tâm khéo điều phục rồng, ở trong tất cả phiền não rồng vẫn được tự tại.

Như có tráng sĩ cầm mâu nhọn đâm thủng giáp cứng xuyên qua không ngại. Cũng vậy, đại Bồ tát dùng Bồ đề tâm bén nhọn đâm thủng những tà kiếnphiền nãoxuyên qua không ngại.

Như đại lực sĩ Ma ha na già, nếu nổi oai nộ thì trên trán nổi bướu lở, nếu bướu lở chưa khép thì tất cả người trong Diêm phù đề không ai chế phục được. Cũng vậy, đại Bồ tát nếu khởi đại bi thì ắt phát Bồ đề tâm, tâm ấy chưa xả thì tất cả thế gian, ma và dân ma không làm hại được…”

Bồ đề tâm như phương pháp thu phục rồng phiền não, đây là trí huệ phương tiện, có trí huệ phương tiện thì sống trong sanh tử phiền não mà có thể hóa giải và làm lợi lạc cho việc tu hành tự giácgiác thaBồ đề tâm cũng là đại bi mà tất cả thế gian, ma và dân ma không làm gì được. Bồ đề tâm là sự hợp nhất của trí huệ và đại bisức mạnh vô địch chiến thắng sự xấu ác và mê mờ của các cõi sanh tử.

Như có cây thuốc tên Vô sanh căn, do lực của cây này làm tăng trưởng tất cả cây ở Diêm phù đề. Cũng vậy do lực của cây Bồ đề tâm của đại Bồ tát làm cho tất cả các thiện pháp của hàng hữu họcvô học và các Bồ tát đều được tăng trưởng.

Như trên tòa kim cương trong Đại thiên thế giới có thể giữ được các Phật ngồi đạo trànghàng phục các ma, thành Vô thượng Chánh giác, tất cả các tòa khác không thể kham giữ được. Cũng vậy, Bồ đề tâm có thể giữ gìn tất cả hạnh nguyện, các ba la mật, các nhẫn, các địa, hồi hướngthọ kýtu tập các pháp trợ đạocúng dường chư Phật, nghe pháp thọ hành của Bồ tát, tất cả các tâm khác không sao giữ gìn nổi.

Như núi Tu di nếu ai ở gần thì đồng màu với núi. Cũng vậy, nếu ai ở gần Bồ đề tâm của đại Bồ tát thì đồng màu với Nhất thiết trí của Bồ đề tâm ấy…”

Bồ đề tâm làm tăng trưởng và giữ gìn tất cả Phật pháp, tất cả trí huệ và công đức tích tập của Bồ tát. Hơn nữa Bồ đề tâm làm ai ở gần nó thì được chiếu sáng đồng màu với nó. Bồ đề tâm là ánh sáng của trí huệ và sự tỏa chiếu của đại bi, do đó những ai ở gần nó sẽ được chiếu sáng đồng màu với nó.

Như đem một ngọn đèn vào trong nhà tối, thì bóng tối trăm ngàn năm đều được phá trừ. Cũng vậy, Bồ đề tâm của đại Bồ tát đem vào trong tâm của chúng sanh thì có thể phá trừ hết những phiền não nghiệp chướng trong trăm ngàn vạn ức kiếp không thể nói hết.

 Như ngọc báu ma ni thanh tịnh, vì mắt lòa thì thấy là bất tịnh. Cũng vậy, Bồ đề tâm của đại Bồ tát vốn thanh tịnh, kẻ vô trí chẳng tin mà cho là bất tịnh.

Như ngọc lưu ly trong trăm ngàn năm ở chỗ dơ bẩn mà chẳng nhiễm dính dơ bẩn, vì tánh nó xưa nay thanh tịnh. Cũng vậy, Bồ đề tâm của đại Bồ tát ở cõi dục trăm ngàn kiếp mà không bị lỗi họa của cõi dục làm ô nhiễm, vì tánh nó vốn thanh tịnh như pháp giới vậy.”

Bồ đề tâm tánh vốn thanh tịnh, không gì làm dơ bẩn được. Hơn nữa tánh Bồ đề tâm vốn thanh tịnh như pháp giới xưa nay thanh tịnh. Thế nên để chứng ngộ pháp giới xưa nay thanh tịnhBồ tát cần chứng ngộ tánh Bồ đề tâm vốn thanh tịnh nơi tâm mình.

Như có nước thuốc tên Ha trạch ca, nếu dùng một lạng nước thuốc này thì biến được ngàn lạng đồng đều thành vàng thật, chẳng phải ngàn lạng đồng biến ra được thuốc này. Cũng vậy, đại Bồ tát dùng thuốc trí hồi hướng của Bồ đề tâm biến tất cả nghiệp, mê lầm đều thành tướng Nhất thiết trí, chẳng phải nghiệp mê lầm mà biến thành được tâm này.

Như lửa nhỏ tùy khi đốt chỗ nào thì ngọn lửa càng mạnh. Cũng vậy, Bồ đề tâm của đại Bồ tát tùy chỗ nào duyên đến thì lửa trí càng mạnh.

Như trong biển có ngọc báu tên Hải tạng, hiện khắp những sự trang nghiêm trong biển. Cũng vậy Bồ đề tâm của đại Bồ tát hiện khắp những sự trang nghiêm của Nhất thiết trí.

Như huyễn thuật, không có hình sắc mà hiện hình sắc. Cũng vậy, Bồ đề tâm của đại Bồ tát tuy không có sắc, không thể thấy được, nhưng lại ở khắp mười phương pháp giới thị hiện đủ thứ công đức trang nghiêm.”

Bồ đề tâm có chức năng là chuyển hóa. Như thuốc Ha trạch ca chuyển hóa đồng thành vàng, như ngọn lửa chuyển hóa tất cả những thứ gì nó chạm đến thành trí huệnhư huyễn thuật, chuyển hóa thế giới bình thường thành pháp giới đủ thứ công đức trang nghiêm.

Nói theo những Kinh, Luận khác, Bồ đề tâm “chuyển thức thành trí, chuyển sanh tử thành Niết bàn”.

 

Như đã nói ở trên, trong phần tiếp theo này Đức Di Lặc giảng về Bồ đề tâm cho đồng tử Thiện Tài, tuy ít thí dụ hơn (103 thí dụ so với phần trước 118 thí dụ) nhưng câu dài hơn, nghĩa là sâu và rộng hơn. Sâu hơn và rộng hơn nghĩa là Bồ đề tâm tương đối gần như nhập thành một với Bồ đề tâm tuyệt đối.

Bồ đề tâm tuyệt đối là Pháp giới, là Phật Tỳ Lô Giá Na, là Pháp thân của tất cả chư Phật. Thế nên sau khi giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâmĐức Di Lặc cho Thiện Tài vào lầu gác Tỳ Lô Giá Na Trang Nghiêm Tạng của ngài. Lầu gác ấy phản ánh toàn bộ pháp giớitoàn bộ không gian và thời gian, nói cách khác, lầu gác ấy chính là Pháp giới.

Bồ đề tâm tuyệt đối là tánh Khôngpháp thân của tất cả chư Phật:

Như có ngọc báu tên Vua tự tại ở trong châu Diêm phù đề cách mặt trời mặt trăng bốn vạn do tuần mà bao nhiêu cảnh vật trang nghiêm của nhật nguyệt đều hiện ảnh đầy đủ. Cũng vậy, công đức thanh tịnh của đại Bồ tát phát Bồ đề tâm ở trong sanh tử chiếu pháp giới Không, tất cả công đức của Phật trínhật nguyệt đều hiện trong đó.

Như có cây tên Vô căn, không có rễ mà cành lá hoa quả trọn đều sum suê. Cũng vậy, cây Bồ đề tâm của đại Bồ tát vốn không có căn, vô sở đắc mà có thể trưởng dưỡng cây lá hoa quả Nhất thiết trí tríthần thôngđại nguyện che mát khắp thế gian.

Như nhà huyễn thuật muốn làm huyễn sự, trước phải khởi ý ghi nhớ huyễn pháp sau đó biến hiện mới thành tựu. Cũng vậy, đại Bồ tát muốn khởi tất cả huyễn sự thần thông của chư Phật và Bồ tát, trước phải phát tâm Bồ đề sau đó tất cả mới được thành tựu.”

Ở đoạn trước có nói, “Bồ đề tâm tánh vốn xưa nay thanh tịnh như pháp giới,” tánh thanh tịnh của Bồ đề tâm và pháp giới chính là tánh Không. Ở đây, nói Bồ đề tâm là tánh Không một cách trực tiếp, “Bồ đề tâm ở trong sanh tử chiếu pháp giới Không”, “Bồ đề tâm là cây Vô cănvô sở đắc”. Và khi nói, “huyễn thuật, huyễn sự, huyễn pháp”, thì huyễn là một đặc tính của tánh Không; huyễn là sự biến hiện của tánh Không.

 

Bồ đề tâm là quang minh, ánh sáng. Đoạn Kinh này nói nhiều lần Bồ đề tâm là ánh sáng: “Như có ngọc ma ni tên Đại quang minh… “, “Như ngọc Tịnh quang minh…”, “Như ánh sáng mặt trời mặt trăng…”, “Đèn Bồ đề tâm của đại Bồ tát đại nguyện là tim đèn, sáng chiếu pháp giới, thêm dầu đại bigiáo hóa chúng sanhtrang nghiêm cõi nước, thi hành Phật sự, không hề ngưng nghỉ.”…

Như một ngọn đèn thắp cho trăm ngàn đèn khác, ngọn đèn gốc này không giảm không hết. Cũng vậy, đèn Bồ đề tâm của đại Bồ tát sanh thành đèn trí của ba đời chư Phật mà đèn tâm này vẫn không giảm không hết.

 

Bồ đề tâm là sức mạnhnăng lực không gì thắng nổi, thế nên được ví như “kim cương”, “sư tử”, “chày kim cương”, “đức vua đại thế lực”, “đại dương không thể hoại”…

Bồ đề tâm có năng lực của trí huệ và đại bi:

Như mèo chồn vừa nhìn thấy chuột, chuột liền rút vô hang chẳng dám ra. Cũng vậy, đại Bồ tát phát Bồ đề tâm tạm dùng huệ nhãn quán các nghiệp, các mê lầm thì mê lầm, nghiệp liền lẫn trốn chẳng còn sanh ra nữa.”

“Như có người uống cam lồ, tất cả vật độc không làm hại được. Cũng vậy đại Bồ tát uống Bồ đề tâm thì chẳng sa vào địa Nhị thừa, do đó đủ lực bi nguyện rộng lớn.

Nhờ năng lực của trí huệ và đại bi hợp nhất mà Bồ tát có thể “làm huyễn sự, muốn khởi tất cả huyễn sự thần thông của chưa Phật, chư Bồ tát, trước phải khởi phát Bồ đề tâm thì sau tất cả mới được thành tựu.” Như thế sức mạnh để làm huyễn sự, tất cả huyễn sự thần thông là sức mạnh của Bồ đề tâm, của trí huệ và đại bi hợp nhất.

 

Đức Di Lặc kết luận đoạn giảng về Bồ đề tâm này như sau:

Thiện nam tử! Bồ đề tâm này thành tựu vô lượng vô biên cho đến không thể nói không thể nói hết công đức thù thắng. Nếu có chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ đề thì được công đức thù thắng như vậy.

Vì thế, thiện nam tử, ngươi đã được lợi lành lớn, vì ngươi đã phát tâm Vô thượng Bồ đề, cầu Bồ tát hạnh, là đã được công đức lớn như vậy.

Này thiện nam tử! Như ngươi hỏi Bồ tát làm sao học Bồ tát hạnh, tu Bồ tát đạo? Ngươi hãy vào trong tòa đại lâu các Tỳ Lô Giá Na Trang Nghiêm Tạng này, quán sát khắp nơi thì có thể biết rõ sự học Bồ tát hạnh, học rồi thì thành tựu vô lượng công đức.”

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 49)
Sơ quả hay Tu-đà-hoàn là quả vị Thánh đầu tiên mà người Phật tử có thể chứng đạt ngay hiện đời.
(Xem: 179)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(Xem: 215)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 231)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 298)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 213)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 261)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 370)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 336)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 317)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 408)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 631)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 493)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 499)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 599)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 761)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 861)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 871)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 856)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 749)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 721)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 725)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 824)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 846)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 947)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 731)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 626)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 721)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 835)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 726)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 721)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 835)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 863)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 834)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 885)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 913)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 907)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1111)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 968)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1693)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1079)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1216)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 960)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1222)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1127)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1138)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1297)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1578)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 2049)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1111)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1364)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1108)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 961)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1071)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1110)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1541)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1300)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1303)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 1034)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant