Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Trang 7

11 Tháng Ba 201100:00(Xem: 21253)
Trang 7

KINH HOA NGHIÊM 
Hán Dịch: Ðại-Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà - Việt Dịch: HT Thích Trí Tịnh
Phật Học Viện quốc Tế Xuất Bản PL 2527 - 1983

PHẨM THẾ CHỦ DIỆU NGHIÊM 
THỨ NHẤT

VI.- CHƯ BỒ-TÁT CÚNG-DƯỜNG TÁN THÁN.

Lúc bấy giờ tòa sư-tử của Như-Lai, những hoa báu đẹp, luân-đài, thềm bực và các cửa nẻo, mỗi mỗi đều xuất hiện Phật sát vi-trần số Ðại Bồ-Tát. Danh hiệu của các ngài là : Hải-Huệ-Tự-Tại-Thần-Thông-Vương Ðại Bồ-Tát , Lôi-Âm-Phổ-Chấn Ðại Bồ-Tát , Chúng-Bửu-Quang-Minh-Kế Ðại Bồ-Tát, Ðại-Trí-Nhựt-Dũng-Mãnh-Huệ Ðại Bồ-Tát, Bất-Tư-Nghì-Công-Ðức-Bửu-Trí-Ấn Ðại Bồ-Tát, Bá-Mục-Liên-Hoa-Kế Ðại Bồ-Tát, Kim-Diệm-Viên-Mãn-Quang Ðại Bồ-Tát, Pháp-Giới-Phổ-Âm Ðại Bồ-Tát, Vân-Âm-Tịnh-Nguyệt Ðại Bồ-Tát, Thiện-Dũng-Mãnh-Quang-Minh-Tràng Ðại Bồ-Tát. Vi-Trần số đại Bồ-Tát như vậy làm bực thượng thủ đồng thời xuất hiện. Chư Bồ-Tát này đều sắm những thứ cúng-dường như mây : mây bửu-hoa như-ý, mây liên-hoa diệu-hương, mây bửu-quang, mây hương-diệm, mây quang-minh như-ý, mây nhạc-âm duyệt-ý, mây bửu-đăng quang, mây cây nhánh bông trái bằng châu báu, mây vô tận bửu như-ý quang-minh thanh-tịnh, mây tất cả đồ trang-nghiêm như-ý. Chư Bồ-Tát này đem những mây báu đẹp như vậy rưới khắp tất cả chúng-hội đạo-tràng để cúng-dường, rồi đi nhiễu Phật vô-lượng trăm ngàn vòng. Sau đó chư Bồ-Tát này hóa hiện vô-lượng tòa sư-tử liên-hoa báu đẹp, rồi ngồi kiết-già trên ấy. Công-hạnh của chư Bồ-Tát này thanh-tịnh rộng lớn như biển, được trí-huệ lớn soi sáng pháp phổ-môn, tùy thuận chư Phật được công-hạnh vô-ngại, đầy đủ biệt tài, được bất-tư-nghì môn giải-thoát, trụ nơi bực phổ-môn của Như-Lai, Ðã được tất cả môn đà-la-ni, có thể dung thọ tất cả pháp, khéo trụ bậc trí-huệ tam-thế bình-đẳng, đã được hỷ-lạc rộng lớn rất sâu, rất khéo thanh-tịnh vô-biên phước-đức, quan-sát khắp hư-không pháp-giới chư Phật xuất thếmười phương quốc-độ đều siêng cần đến cúng-dường. Lúc đó Hải-Huệ Tự-Tại-Thần-Thông-Vương Ðại Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật, quan sát khắp tất cả chúng hội đạo-tràng rồi nói kệ rằng :

Chư Phật tỏ ngộ đều đã biết

Vô-ngại như không đều chiếu rõ

Sáng khắp mười phương vô-lượng cõi

Ở nơi chúng-hội rất nghiêm khiết.

Như-Lai công-đức chẳng thể lường

Thập phương pháp-giới đều sung mãn

Khắp ngồi dưới tất cả thọ-vương

Bực đại tự-tại đồng vân tập.

Phật có sức thần-thông như vậy

Một niệm hiện ra vô-lượng tướng

Như-Lai cảnh-giới thật vô-biên

Tùy môn giải-thoát hay xem thấy.

Như-Lai thuở xưa vô-lượng kiếp

Ở trong các cõi siêng tu hành

Các môn phương-tiện độ chúng-sanh

Khiến họ tuân hành các Phật-pháp.

Tỳ-Lô-Giá-Na đủ tướng hảo

Ngồi liên-hoa tạng sư-tử tòa

Tất cả chúng-hội đều thanh-tịnh

An-trụ vắng lặng đồng chiêm ngưỡng.

Ma-Ni-Bảo-Tạng phóng quang-minh

Khắp pháp vô-biên mây hương-diệm

Vô-lượng chuỗi đẹp đồng thòng rũ

Bảo-tọa như vậy Như-Lai ngồi.

Các thứ trang-nghiêm cửa cát-tường

Thường phóng đăng-quang mây bửu-diệm

Lửa sáng rộng lớn chiếu khắp nơi

Ðức Phật ngồi trên thêm nghiêm hảo.

Các thứ cửa sổ ma-ni-đẹp

Hoa-sen đẹp báu khắp trang-nghiêm

Thường vang tiếng diệu người nghe vui

Phật ngồi trên tòa minh hiển nhứt.

Luân-báu chở tòa hình bán nguyệt

Kim-Cang làm đài màu lửa sáng

Chư đại Bồ-Tát thường bao quanh

Phật ngồi giữa chúng sáng chói nhứt.

Các thứ biến hóa khắp mười phương

Diễn nói Như-Lai nguyện rộng lớn

Tất cả ảnh tượng đều hiện trong

Trên tòa như vậy Phật an-tọa.

Lúc đó Vân-Âm-Phổ-Chấn Ðại Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật, quan sát khắp tất cả chúng-hội đạo-tràng rồi nói kệ rằng :

Ngày xưa Phật tu bồ-đề hạnh

Cúng-dường thập phương vô-lượng Phật

Như-Lai oai-lực thường hộ-trì

Trong tòa Như-Lai đều thấy rõ.

Như ý châu-Vương như lửa chói

Hoa đẹp trang-nghiêm tòa sư-tử

Các thứ trang-nghiêm đều ảnh hiện

Tất cả chúng-hội đồng thấy rõ.

Phật tòa khắp hiện tướng trang-nghiêm

Niệm niệm sắc loại đều sai biệt

Tùy các chúng-sanh hiểu chẳng đồng

Riêng thấy Phật ngồi nơi trên đó.

Nhánh báu bủa giăng lưới liên-hoa

Hoa nở hiện ra chư Bồ-Tát

Tiếng vui vi-diệu thường vang ra

Ca ngợi Như-Lai ngồi bửu-tọa.

Công-đức Như-Lai rộng vô-lượng

Tất cả trang-nghiêm từ đây sanh

Những sự nghiêm sức trong mỗi địa

Tất cả chúng-sanh chẳng rõ được.

Kim-Cang làm đất không hư-hoại

Rộng lớn thanh-tịnh rất bằng phẳng

Ma-ni làm lưới giăng hư-không

Dưới cội bồ-đề đều cùng khắp.

Nơi đó vô-biên sắc tướng sáng

Chơn-Kim làm cát rải khắp nơi

Khắp nơi rải hoachâu báu

Ðều dùng sáng đẹp tòa Như-Lai.

Ðịa-Thần hoan-hỷ nên hớn hở

Sát-na thị hiện vô-cùng-tận

Khắp hiện tất cả mây trang-nghiêm

Luôn ở trước Phật đứng chiêm ngưỡng.

Bửu-đăng rộng lớn rất sáng chói

Hương-diệm phóng quang không dừng ngớt

Tùy thời thị-hiện đều sai khác

Ðịa-Thần dùng đây cúng-dường Phật.

Tất cả mười phương những quốc-độ

Những sư trang-nghiêm trong các cõi

Nay đạo-tràng này đều hiện đủ

Do Phật oai-thần nên được vậy.

Lúc đó Chúng-Bửu-Quang-Minh-Kế Ðại Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật, quan sát khắp tất cả chúng-hội đạo-tràng rồi nói kệ rằng :

Thế-Tôn thuở trước lúc tu hành

Thấy các Phật-độ đều viên-mãn

Vô-lượng vô-tận việc đã thấy

Trong đạo-tràng này đều hiện đủ.

Thần-lực quảng-đại của Thế-Tôn

Phóng-quang khắp rưới ma-ni-bửu

Bửu châu như vậy rải đạo-tràng

Khắp cả mặt đất trang-nghiêm đẹp.

Như-Lai phước-đức đại thần-thông

Ma-ni châu bửu khắp trang-nghiêm

Mặt đất cùng dưới cội bồ-đề

Ðều phóng quang-minh mà diễn thuyết.

Bửu-đăng vô-lượng từ trên xuống

Bửu-Vương xen lẫn để trang-nghiêm

Khắp nơi đều diễn diệu-pháp-âm

Ðây là Ðịa-Thần tự hiển-hiện.

Bửu-địa khắp nơi hiện mây sáng

Bửu-cự chói sáng như chớp nháng

Bửu-Võng bủa giăng trùm trên không

Bửu-chi bày hàng trang-nghiêm đẹp.

Các ngài nên xem nơi chốn này

Nhiều thứ diệu-bảo dùng trang-nghiêm

Hiển bày biển nghiệp của chúng-sanh

Khiến họ rõ biết chơn pháp-tánh.

Cùng khắp mười phương tất cả Phật

Những cội bồ-đề đều viên mãn

Tất cả đều hiện trong đạo-tràng

Diễn nói Như-Lai pháp thanh-tịnh.

Tùy lòng ưa thích của chúng-sanh

Nơi ấy vang ra tiếng vi-diệu

Như trên Phật-tòa đã diễn thuyết

Mỗi mỗi pháp-môn đều nói đủ.

Nơi ấy thường phóng diệu hương-quang

Hương-quang diễn nói tiếng thanh-tịnh

Nếu có chúng-sanh kham thọ pháp

Ðều khiến được nghe trừ phiền-não.

Mỗi mỗi trang-nghiêm đều viên-mãn

Giả-sử ức kiếp nói không hết

Như-Lai thần-lực khắp mọi nơi

Vì thế chỗ kia đều nghiêm tịnh.

Lúc đó Ðại-Trí-Nhựt-Dũng-Mãnh-Huệ Ðại Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật, quan sát khắp tất cả chúng-hội đạo-tràng rồi nói kệ rằng :

Thế-Tôn nghiêm nhìn ngồi pháp-đường

Chói sáng rực-rỡ trong cung điện

Tùy lòng ưa thích của chúng-sanh

Thân Phật hiện khắp mười phương cõi.

Như-Lai cung điện chẳng nghĩ bàn

Ma-ni-bửu-tạng dùng trang sức

Những đồ trang-nghiêm đều sáng trưng

Trong đó Phật ngồi minh hiển nhứt.

Ma-ni làm trụ đủ các màu

Linh-lạc chơn-kim như mây bủa

Thềm báu bốn mặt liệt thành hàng

Cửa nẻo tùy phương đều mở rộng.

Màn trướng trang-nghiêm lụa bông đẹp

Cây báu nhánh lá đều nghiêm-sức

Chuỗi ngọc ma-ni rũ bốn phương

Pháp-Vương yên lặng ngồi trong đó.

Ma-ni làm lưới tràng đẹp thơm

Ðèn sáng chói rực như mây bủa

Che trên dùng những vật trang-nghiêm

Ðấng Chánh-Biến-Tri ngồi nơi đó.

Hiện mây biến-hóa khắp mười phương

Mây ấy diễn-thuyết khắp thế-gian

Tất cả chúng-sanh đều thuận phục

Hiện rõ như vậy trong điện Phật.

Ma-Ni làm cây đơm bông đẹp

Mười phương các cõi không sánh được

Những sự trang-nghiêm trong ba đời

Bóng hình đều hiện nơi trong ấy.

Các nơi đều có châu ma-ni

Ánh sáng rực rỡ vô-lượng thứ

Cửa nẻo tùy phương xen nhau bày

Trụ-nóc trang-nghiêm rất tráng-lệ.

Như-Lai cung-điện bất-tư-nghì

Thanh-tịnh quang-minh đủ các tướng

Tất cả cung-điện hiện nơi trong

Nơi nơi đều có Như-Lai tọa.

Như-Lai cung-điện vô-lượng-biên

Ðức Phật tự nhiên ngự trong ấy

Mười phương tất cả các chúng-hội

Ðều hướng về Phật mà vân tập.

Lúc đó Bất-Tư-Nghì-Công-Ðức-Bửu-Trí-Ân Ðại Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật, quan sát khắp tất cả chúng-hội đạo-tràng rồi nói kệ rằng :

Xưa Phật tu hành những biển phước

Tất cả quốc-độ vi-trần số

Thần-thông nguyện-lực cảm sanh ra

Ðạo-tràng nghiêm tịnh không cấu nhiễm.

Châu-Vương như ý làm gốc cây

Kim-cang như-ý làm thân cây

Bửu-võng che giăng trên không gian

Diệu-hương ngào-ngạt lan tràn khắp.

Cây nhánh nghiêm sức đủ châu báu

Thân bằng ma-ni đua cao vọi

Nhánh lá che đầy như mây giăng

Ðây là đạo-tràng nơi Phật ngự.

Ðạo-tràng rộng lớn bất-tư-nghì

Cây báu giáp vòng đều che khắp

Lá dầy bông say, soi sáng nhau

Trong hoa đều kết ma-ni quả.

Tất cả nhánh cây phát diệu-quang

Chiếu khắp đạo-tràng đều sáng rỡ

Quang-minh thanh-tịnh sáng vô-tận

Hiển hiện như đây do Phật lực.

Ma-ni-bửu-tạng dùng làm bông

Bóng sáng chói giăng dường mây gấm

Quanh cây khắp nơi đều thơm tho

Trong đạo-tràng này khắp nghiêm sức.

Các ngài nên xem Phật đạo-tràng

Lưới báu liên-hoa đều thanh-tịnh

Tia sáng kết vừng đây hiện ra

Tiếng lạc tiếng linh trong mây phát.

Mười phương tất cả các quốc-độ

Những cây trang-nghiêm màu sắc tốt

Trong cội bồ-đề hiện rõ ràng

Phật ngự nơi đây sạch cấu nhiễm.

Ðạo-tràng rộng lớn do phước thành

Cây nhánh mưa báu luôn vô-tận

Trong báu xuất-hiện các Bồ-Tát

Ðều đến mười phương cúng-dường Phật.

Chư Phật cảnh-giới bất-tư-nghì

Khiến khắp cây báu vang tiếng nhạc

Như đạo bồ-đề tu thuở trước

Chúng-hội nghe tiếng đều được thấy.

Lúc đó Bá-Mục-Liên-Hoa-Kế Ðại Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật, quan sát khắp tất cả chúng-hội đạo-tràng rồi nói kệ rằng :

Tất cả ma-ni vang diệu-âm

Xưng dương hồng-danh tam-thế Phật

Chư Phật vô-lượng sự thần-thông

Trong đạo-tràng đây đều hiện thấy.

Các bông đua nở như chuỗi giăng

Mây sáng phủ tuôn khắp mười phương

Thần cây bồ-đề hướng Thế-Tôn

Nhứt-tâm chiêm ngưỡng cúng-dường Phật.

Lửa sáng ma-ni kết thành tràng

Trong tràng hừng-hực phát hương thơm

Hương thơm huân khắp tất cả chúng

Do đây đạo-tràng đều nghiêm khiết.

Liên-hoa thòng tuôn sáng màu vàng

Sáng vàng vang ra tiếng của Phật

Che khắp mười phương các quốc-độ

Dứt hẳn nóng phiền của đại-chúng.

Bồ-đề thọ-vương tự-tại-lực

Thường phóng quang-minh rất thanh-tịnh

Chúng-hội mười phương vô-lượng-biên

Trong đạo-tràng này đều hiện rõ.

Nhánh báu chói rõ như đèn sáng

Ánh-sáng tuyên thuyết bổn nguyện lớn

Như Phật thuở xưa nơi các cõi

Công-hạnh tu hành đều nói đủ.

Dưới cây chư thần đông vô-số

Nơi đạo-tràng này đồng hội đến

Trước cây đạo-thọ của Như-Lai

Cùng nhau tuyên dương môn giải-thoát.

Thế-Tôn thuở xưa thường tu tập

Cúng-dường tất cả mười phương Phật

Công-hạnh tu hànhhồng danh

Trong châu ma-ni đều hiện rõ.

Tất cả đạo-tràng vang tiếng diệu

Diệu-âm rộng lớn khắp mười phương

Nếu có chúng-sanh thọ được pháp

Liền điều-phục họ khiến thanh-tịnh.

Như-Lai thuở xưa khắp tu hành

Tất cả vô-lượng trang-nghiêm sự

Mười phương tất cả cội bồ-đề

Mỗi cây trang-nghiêm vô-lượng thứ.

Lúc đó Kim-Diệu-Viên-Mãn-Quang Ðại Bồ-Tát, thừa oai-lực của Phật, quan sát khắp tất cả chúng-hội đạo-tràng rồi nói kệ rằng :

Xưa Phật tu hành hạnh bồ-đề

Nơi các cảnh-giới hiểu rành rõ

Xứ cùng phi-xứ trọn không nghi

Ðây là trí-lực đầu tiên cả.

Như xưa khắp quan-sát pháp-tánh

Tất cả biển nghiệp đều sáng suốt

Việc ấy ngày nay trong lưới sáng

Cùng khắp mười phương diễn thuyết đủ.

Thuở xưa tu hành đại phương-tiện

Theo cơ chúng-sanh mà hóa độ

Khiến khắp chúng-hội lòng sạch trong

Nên nay Phật thành căn-trí-lực.

Như các chúng-sanh hiểu chẳng đồng

Ý muốn việc làm đều sai khác

Thuận theo mỗi người để thuyết pháp

Phật dùng trí-lực được như vậy.

Khắp hết mười phương những cõi nước

Tất cả vô-lượng chúng-sanh-giới

Phật trí bình-đẳng như hư-không

Trong chân lông Phật đều hiện đủ.

Việc làm mọi nơi Phật đều biết

Nhứt niệm tam thế đều không sót

Thập phương quốc-độ các chúng-sanh

Có thể khai-thị khiến được rõ.

Thiền-định giải-thoát sức vô-biên

Tam-muội phương-tiện cũng như vậy

Vì chúng thị-hiện khiến vui-mừng

Tối tâm phiền-não đều trừ sạch.

Trí Phật vô-ngại gồm tam thế

Sát-na đều hiện trong chân lông

Phật-pháp quốc-độ và chúng-sanh

Hiện rõ đều do sức tùy niệm.

Phật-nhãn rộng lớn như hư-không

Thấy khắp pháp-giới đều không sót

Lực-dụng vô-thượng bực vô-ngại

Phật-nhãn vô-lượng hiển bày được.

Tất cả chúng-sanh đủ phiền-não

Tất cả tùy miên cùng tập-khí

Như-Lai xuất-hiện khắp thế-gian

Ðều dùng phương-tiện khiến trừ diệt.

Lúc đó Pháp-Giới-Phổ-Âm Ðại Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật, quan sát khắp tất cả chúng-hội đạo-tràng rồi nói kệ rằng :

Oai thần của Phật khắp mười phương

Thị-hiện rộng lớn vô-phân-biệt

Hạnh đại bồ-đề ba-la-mật

Từ xưa đầy đủ đều khiến thấy.

Xưa với chúng-sanh khởi đại-bi

Tu hành Bồ-Tát ba-la-mật

Do đây thân Phật rất đẹp xinh

Chúng-sanh thấy Phật đều mừng rỡ.

Thuở xưa vô-biên vô-lượng kiếp

Tu trì tịnh-giới ba-la-mật

Thân Phật thanh-tịnh khắp mười phương

Dứt trừ thế-gian những đau khổ.

Thuở xưa tu hành nhẫn thanh-tịnh

Tín giải chân-thật vô-phân-biệt

Nên sắc tướng Phật đều viên-mãn

Phóng quang chiếu sáng khắp mười phương.

Thuở xưa nhiều kiếp tinh-tấn tu

Chuyển được chúng-sanh chướng sâu nặng

Nên Phật phân thân khắp mười phương

Dưới cội bồ-đề đều có Phật.

Xưa Phật tu hành vô-lượng kiếp

Vô-lượng thiền-định đều thanh-tịnh

Người thấy được Phật tâm vui mừng

Phiền-não chướng cấu đều trừ dứt.

Như-Lai thuở xưa tu các hạnh

Ðầy đủ bát-nhã ba-la-mật

Nên Phật phóng quang khắp sáng soi

Trừ được tất cả ngu-si-ám.

Các môn phương-tiện độ chúng-sanh

Khiến chỗ tu hành đều thành tựu

Tất cả mười phương đều khắp qua

Vô-biên kiếp số chẳng thôi dứt.

Xưa Phật tu hành trải nhiều kiếp

Trọn nên đại nguyện ba-la-mật

Nên Phật xuất hiện khắp thế-gian

Cứu chúng-sanh tận vị-lai-tế.

Từ vô-lượng kiếp Phật tu hành

Tất cả pháp-lực ba-la-mật

Do đây được thành sức tự nhiên

Hiện khắp mười phương các quốc-độ.

Xưa Phật tu hành trí phổ-môn

Trí tánh rộng lớn như hư-không

Do đây được thành sức vô-ngại

Phóng quang chiếu khắp mười phương cõi.

Lúc đó Vâm-Âm-Tịnh-Nguyệt Ðại Bồ-Tát, thừa oai-lực của Phật, quan sát khắp tất cả chúng-hội đạo-tràng rồi nói kệ rằng :

Thần-thông cảnh-giới khắp hư-không

Thập phương chúng-sanh đều được thấy

Như xưa tu hành đã được thành

Trong quả ma-ni đều nói đủ.

Thanh-tịnh siêng tu vô-lượng kiếp

Vào bực sơ-địa cực Hoan-Hỷ

Xuất sanh pháp-giới trí rộng lớn

Thấy khắp mười phương vô-lượng Phật.

Trong tất cả pháp bực Ly-Cấu

Khắp chúng-sanh số trì tịnh-giới

Ðã nhiều đại-kiếp rộng tu hành

cúng-dường vô-biên vô-lượng Phật.

Chứa nhóm phước-đức bực Phát-Quang

Tạng xa-ma-tha trí kiên-cố

Pháp-vân rộng lớn đều đã nghe

Trong trái ma-ni nói như vậy.

Diệm-Huệ sáng chói bực vô-đẳng

Khéo rõ cảnh-giới khởi từ-bi

Tất cả quốc-độ bình-đẳng thân

Như Phật đã tu đều diễn nói.

Các môn pháp-tạng bực Nan-Thắng

Ðộng tịch thuận nhau không trái phản

Cảnh-giới Phật-pháp đều bình-đẳng

Như Phật đã tu đều nói được.

Tu hành rộng lớn bực Hải-Huệ

Tất cả pháp-môn đều rõ khắp

Hiện khắp quốc-độ như hư-không

Pháp-âm này trong cây diễn nói.

Cùng khắp pháp-giới thân hư-không

Khắp soi chúng-sanh đèn trí-huệ

Tất cả phương-tiện đều thanh-tịnh

Bậc Viễn-Hành xưa nay nói đủ.

Tất cả nguyện hạnh đã trang-nghiêm

Vô-lượng quốc-độ đều thanh-tịnh

Tất cả phân-biệt không động được

Ðây bực Vô-Ðẳng đều tuyên thuyết.

Vô-lượng cảnh-giới sức thần-thông

Khéo vào giáo-pháp quang-minh lực

Thanh-tịnh như đây bực Thiện-Huệ

Nhiều kiếp tu hành đều nói đủ.

Pháp-Vân rộng lớn đệ-thập-địa

Chứa trùm tất cả khắp hư-không

Cảnh-giới chư Phật đều tuyên bày

Tiếng này Ðại Bồ-Tát oai-thần của Phật.

Lúc đó Thiện-Dũng-Mãnh-Quang-Tràng Ðại Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật, quan sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :

Vô-lượng chúng-sanh ở trong hội

Các môn tin hiểu tâm thanh-tịnh

Ðều ngộ nhập được trí Như-Lai

Liễu đạt tất cả trang-nghiêm cảnh.

Ðều khởi tịnh nguyện tu các hạnh

Ðều từng cúng-dường vô-lượng Phật

Thấy thân chân thật của Như-Lai

Cũng thấy tất cả những thần-biến.

Hoặc có thấy được Phật pháp-thân

Vô-đẳng vô-ngại đều cùng khắp

Tất cả vô-biên các pháp-tánh

Ðều vào trong thân không thừa sót.

Hoặc có thấy Phật diệu-sắc-thân

Quang-minh sắc tướng đều vô-biên

Tùy các chúng-sanh hiểu chẳng đồng

Trong mười phương đều hiện biến khắp.

Hoặc thấy vô-ngại trí-huệ-thân

Tam thế bình-đẳng như hư-không

Thuận tâm chúng-sanh mà chuyển biến

Các môn sai biệt đều khiến thấy.

Có người rõ được âm-thanh Phật

Cùng khắp mười phương các cõi nước

Tùy theo chúng-sanh chỗ nên hiểu

Ngôn âm nói ra không chướng ngại.

Hoặc thấy Như-Lai phóng quang-minh

Sáng soi mọi nơi khắp thế-gian

Có người ở trong Phật quang-minh

Lại thấy chư Phật hiện thần biến.

Có người thấy Phật phóng quang-minh

Từ nơi chân lông tuôn ánh sáng

Thị-hiện thuở xưa đạo tu hành

Khiến sanh tin sâu vào Phật-trí.

Hoặc thấy tướng Phật phước trang-nghiêm

Và thấy phước này từ đâu sanh

Thuở xưa tu hành ba-la-mật

Ðều trong tướng Phật được thấy rõ.

Như-Lai công-đức chẳng thể lường

Ðầy khắp pháp-giới không ngằn mé

Nhẫn đến thần-thông các cảnh-giới

Do nơi Phật lực tuyên nói được.

Lúc đó Hoa-Tạng-Thế-Giới trang-nghiêm do thần lực của Phật, khắp nơi chấn động sáu cách mười tám tướng : động, biến-động, phổ-biến động; khởi, biến-khởi, phổ-biến-khởi; dũng, biến-dũng, phổ-biến-dũng; chấn, biến chấn, phổ-biến-chấn; hống, biến hống, phổ-biến-hống; kích, biến kích, phổ-biến-kích. Các Thế-Chủ trên đây mỗi vị đều hiện bất-tư-nghì những cụm mây báu cúng-dường rưới xuống nơi chúng-hội đạo-tràng của Như-Lai : những mây hoa-hương trang-nghiêm, những mây ma-ni tốt đẹp, những mây lưới báu rực-rỡ, những mây vô-biên các loại châu ma-ni sáng chói, những mây chơn-châu nhiều mầu, những mây hương chiên-đàn, những mây bửu-cái, những mây châu ma-ni vang ra tiếng vi-diệu thanh-tịnh, những mây chuỗi ngọc ma-ni sáng như mặt nhựt, những mây các thứ đồ trang-nghiêm sai khác. Như trong thế-giới này mỗi vị Thế-Chủ hoan-hỷ cúng-dường như vậy, trong hoa-tạng thế-giới trang-nghiêm tất cả thế-chủ cũng cúng-dường như vậy. Trong tất cả thế-giới, đều có Như-Lai ngồi đạo-tràng, mỗi vị Thế-Chủ đều riêng tin hiểu, đều riêng cảnh-duyên, đều riêng tu tập pháp trợ đạo, đều riêng thành-tựu, đều riêng hoan-hỷ, đều riêng chứng nhập, đều riêng ngộ hiểu các pháp môn, đều riêng nhập cảnh-giới thần-thông của Như-Lai, đều riêng vào cảnh-giới trí-lực của Như-Lai, đều riêng nhập môn-giải-thoát của Như-Lai. Như Hoa-Tạng Thế-Giới này, thập phương tận pháp-giới hư-không giới trong tất cả thế-giới cũng đều như vậy.

Hết Phẩm Thứ Nhất

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11641)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11967)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11119)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11354)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12069)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12566)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10771)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17991)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11731)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9954)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10174)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12354)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15349)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11247)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14334)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12111)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15374)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12008)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12417)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11190)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12091)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10620)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12559)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13177)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14847)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12696)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16582)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19674)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13114)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12675)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12272)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11865)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10909)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13533)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11960)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11850)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11643)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12774)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14525)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12619)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15666)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13630)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12909)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9880)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18021)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11171)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9084)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12183)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13057)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10316)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12201)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15320)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16613)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12223)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11489)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14276)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19709)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14158)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24614)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10695)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant