Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

03. Phẩm Phổ-Hiền Tam-muội

11 Tháng Ba 201100:00(Xem: 13177)
03. Phẩm Phổ-Hiền Tam-muội

KINH HOA NGHIÊM 
Hán Dịch: Ðại-Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà - Việt Dịch: HT Thích Trí Tịnh
Phật Học Viện quốc Tế Xuất Bản PL 2527 - 1983

PHẨM PHỔ HIỀN TAM MUỘI
THỨ BA

Lúc bấy giờ Phổ-Hiền Bồ-Tát ma-ha-tát ngồi trên tòa sư-tử ở trước Phật, thừa thần-lực của Phật mà nhập tam-muội tên là Nhứt-Thiết-Chư-Phật-Tỳ-Lô-Giá-Na Như-Lai Tạng-Thân, vào khắp tánh bình-đẳng của tất cả Phật, có thể ở nơi pháp-giới thị-hiện những ảnh-tượng rộng lớn vô-ngại đồng hư-không, pháp-giới xoay vần đều theo vào, xuất sanh tất cả tam-muội, có thể bao nạp khắp mười phương pháp-giới, trí quang-minh của tam-thế chư Phật đều từ đây mà sanh những sự an-lập trong mười phương đều có thể thị-hiện, trùm chứa tất cả lực giải-thoát của Phật và trí của chư Bồ-Tát, có thể khiến tất cả quốc-độ vi-trần, đều có thể dung-thọ vô-biên pháp-giới, thành-tựu biển công-đức của tất cả Phật, hiển-thị biển đại nguyện của Như-Lai, bao pháp-luân của tất cả chư Phật đều lưu thông hộ-trì không đoạn tuyệt.

Như trong thế-giới này, Phổ-Hiền Bồ-Tát ở trước Phật nhập tam-muội đây, cũng vậy, khắp pháp-giới hư-không-giới, thập phương tam-thế vi-thế vô-ngại quang-minh rộng lớn, Phật nhãn chỗ thấy được, Phật-lực đến được, Phật-thân hiện được, tất cả quốc-độ, trong quốc-độ này có bao vi-trần, trong mỗi vi-trần có thế-giới vi-trần số Phật độ, trong mỗi độ có thế-giới vi-trần số Phật, trước mỗi đức Phật có thế-giới vi-trần Phổ-Hiền Bồ-Tát cũng đều nhập tam-muội Nhất-Thiết-Chư-Phật-Tỳ-Lô-Giá-Na-Như-Lai-Tạng-Thân này.

Lúc đó, trước mỗi Phổ-Hiền Bồ-Tát đều có thập phương tất cả chánh-pháp hiện ra. Chư Phật này đồng khen rằng : lành thay lành thay ! Này thiện-nam-tử ! Ông có thể nhập Nhất-Thiết-Chư-Phật-Tỳ-Lô-Giá-Na-Như-Lai-Tạng-Thân này.

Này Phật-tử ! Ðây là mười phương tất cả chư Phật đồng gia-hộ cho ông, do vì nguyện-lực của đức Tỳ-Lô-Giá-Na Như-Lai, mà cũng do nguyện-lực tu tập tất cả Phật-hạnh của ông. Chính là ông có thể chuyển pháp-luân của chư Phật, chiếu khắp những biển an-lập ở mười phương không sót, khiến tất cả chúng-sanh trừ tạp-nhiễm được thanh-tịnh, nhiếp khắp tất cả quốc-độ không chấp trước, sâu vào cảnh-giới của chư Phật không chướng ngại, hiện bày công-đức của chư Phật, vào được thật tướng của các pháp-thân lớn trí-huệ, quan-sát tất cả pháp-môn, rõ biết căn của tất cả chúng-sanh, hay thọ trì giáo văn của Như-Lai.

Lúc đó thập phương tất cả chư Phật liền ban cho Phổ-Hiền Bồ-Tát trí-lực vào được nhất-thiết-trí-tánh, ban cho trí vào pháp-giới vô-biên vô-lượng, ban cho trí thành-tựu cảnh-giới chư Phật, ban cho trí biết tất cả thế-giới thành hoại, ban cho trí biết chúng-sanh giới rộng lớn, ban cho trí trụ những tam-muội giải-thoát thậm thâm vô-sai-biệt của chư Phật, ban cho trí nhập căn tánh của tất cả Bồ-Tát, ban cho trí biết ngôn ngữ của tất cả chúng-sanh và từ biện chuyển pháp-luân, ban cho trí vào khắp thân pháp-giới, ban cho trí được thinh-âm của tất cả Phật.

Như trong thế-giới này Phổ-Hiền Bồ-Tát ở trước Như-Lai được chư Phật ban cho những trí như vậy, tất cả Phổ-Hiền Bồ-Tát ở trong vi-trần thế-giới cũng được như vậy. Tại sao thế ? Vì chứng tam-muội đó thời được như vậy.

Lúc đó thập phương chư Phật đều đưa tay hữu xoa đảnh của Phổ-Hiền Bồ-Tát.

Tay Phật đủ tướng-hảo trang-nghiêm phóng lưới quang-minh thơm sáng, đồng thời phát ra tiếng vi-diệu và những sự thần-thông tự-tại. Tất cả Phổ-Hiền nguyện-hải của tất cả Bồ-Tát quá-khứ, hiện-tại, vị-lai, những pháp-luân thanh-tịnh và ảnh-tượng của tam-thế chư Phật cũng đều hiện cả trong quang-minh ấy.

Tất cả Phổ-Hiền Bồ-Tát trong tất cả thế-giới vi-trần cũng đều được xoa đảnh như vậy.

Bấy giờ, Phổ-Hiền Bồ-Tát liền từ tam-muội ấy mà xuất, đồng thời cũng từ vi-trần-số tam-muội mà xuất : từ môn tam-muội trí biết tam thế niệm vô-sai-biệt mà xuất, từ môn tam-muội biết số vi-trần trong tam-thế tất cả pháp-giới mà xuất, từ môn tam-muội hiện tam-thế tất cả Phật-độ mà xuất, từ môn tam-muội hiện xá-trạch của tất cả chúng-sanh mà xuất, từ môn tam-muội biết danh-tự sai khác của tất cả chúng-sanh mà xuất, từ môn tam-muội biết thập phương pháp-giới chỗ nơi đều sai khác mà xuất, từ môn tam-muội biết trong tất cả vi-trần đều có vô-biên Phật-thân rộng lớn mà xuất, từ môn tam-muội diễn nói lý-thú của tất cả pháp mà xuất.

Lúc Phổ-Hiền Bồ-Tát từ những môn tam-muội như vậy mà xuất, chư Bồ-Tát đều được thế-giới vi-trần-số tam-muội, được thế-giới vi-trần-số đà-la-ni, được thế-giới vi-trần-số pháp phương-tiện, được thế-giới vi-trần-số môn biện-tài, được thế-giới vi-trần-số môn tu hành, được thế-giới vi-trần-số trí quang-minh công-đức của chư Phật khắp chiếu pháp-giới, được thế-giới vi-trần-số phương-tiện-lực trí-huệ vô-sai-biệt của chư Phật, được thế-giới vi-trần-số hải-vân trong mỗi chân lông của tất cả chư Phật đều hiện các quốc-độ, được thế-giới vi-trần-số hải-vân mỗi Bồ-Tát thị-hiện từ Ðâu-Xuất Thiên-Cung giáng sanh thành Phật chuyển pháp-luân nhập niết-bàn.

Lúc đó, tất cả thế-giới ở mười phương, do thần-lực của Phật và Ðại Bồ-Tát sức tam-muội của Phổ-Hiền Bồ-Tát, nên các báu trang-nghiêm đều lay động nhẹ, đồng thời vang ra diệu-âm diễn nói các pháp. Lại nơi trong chúng hội đạo-tràng của tất cả Như-Lai khắp rưới mười thứ mây đại ma-ni-vương : mây ma-ni-vương kim-tràng vi-diệu, mây ma-ni-vương quang-minh chiếu sáng, mây ma-ni-vương bửu-luân rũ xuống, mây ma-ni-vương bửu-tạng hiện tượng Bồ-Tát, mây ma-ni-vương xưng dương danh hiệu Phật, mây ma-ni-vương quang-minh chiếu sáng thất cả Phật độ đạo-tràng, mây ma-ni-vương chiếu sáng mười phương tất cả biến hóa, mây ma-ni-vương ca ngợi công-đức của tất cả Bồ-Tát, mây ma-ni-vương sáng chói như mặt nhựt, mây ma-ni-vương tiếng nhạc thích ý vang khắp mười phương.

Rưới khắp mười thứ mây ma-ni-vương như vậy rồi trong các chân lông của chư Phật đều phóng quang-minh. Trong quang-minh nói kệ rằng :

Phổ-Hiền ở khắp các quốc-độ 

Ngồi bửu-liên-hoa chúng đều thấy

Tất cả thần-thông đều hiện ra

Vô-lượng tam-muội đều hay nhập.

Phổ-Hiền thường dùng các thứ thân

Châu lưu pháp-giới đều đầy khắp

Tam-muội phương-tiện sức thần-thông 

Viên-âm rộng nói đều vô-ngại.

Trong tất cả cõi chư Phật ngự

Các môn tam-muội hiện thần-thông 

Mỗi mỗi thần-thông đều khắp cùng 

Thập phương quốc-độ không chỗ sót.

Như tất cả cõi Như-Lai ngự

Trong sát-trần kia cũng như vậy

Chỗ hiện tam-muội sự thần-thông 

Nguyện lực Tỳ-Lô-Giá-Na Phật.

Phổ-Hiền thân tướng như hư-không 

Nương chơn tánh ở chẳng phải cõi

Tùy lòng chúng-sanh chỗ thích ưa

Thị-hiện thân hình đồng tất cả.

Phổ-Hiền an-trụ các đại nguyện 

Vô-lượng thần-thông sức tự-tại 

Tất cả Phật-thân các quốc-độ 

Ðều hiện hình kia mà đến đó.

Tất cả sát-hải vô-lượng biên

Phân thân ở đó cũng vô-lượng 

Cõi nước hiện ra đều trang-nghiêm 

Trong một sát-na thấy nhiều kiếp.

Phổ-Hiền an tất cả cõi

Hiện đại thần-thông hơn tất cả

Chấn động mười phương đều khắp cùng

Khiến chúng quan-sát đều được thấy.

Tất cả công-đức Phật trí-lực

Các môn đại-pháp đều thành đủ

Dùng các tam-muội phương-tiện môn

Bày hạnh bồ-đề mình đã tập.

Tự-tại như vậy bất tư-nghì

Thập phương quốc-độ đều thị-hiện 

Vì bày tam-muội đã khắp vào

Trong mây Phật-quang khen công-đức.

Lúc đó, tất cả chúng Bồ-Tát đều hướng về phía Phổ-Hiền chấp tay chiêm ngưỡng, thừa thần-lực của Phật đồng nói kệ rằng :

Từ các Phật-pháp mà sanh ra

Cũng do Như-Lai nguyện-lực khởi

Chơn-như bình-đẳng tạng hư-không 

Pháp-thân của ngài đã nghiêm-tịnh.

Tất cả Phật độ trong chúng hội

Phổ-Hiền ở khắp nơi trong đó

Quang-minh công-đức bực trí-hải

Chiếu khắp mười phương đều được thấy.

Phổ-Hiền công-đức biển rộng lớn 

Quá khắp mười phương gần gũi Phật 

Tất cả vi-trần có các cõi

Ðều đến được kia mà hiện rõ.

Phật-tử chúng tôi thường thấy Ngài

Gần gũi tất cả chư Như-Lai 

Trụ trong tam-muội cảnh chơn thật 

Số kiếp vi-trần tất cả cõi.

Phật-tử hay dùng thân phổ-biến

Ðều đến thập phương các cõi nước

Biển cả chúng-sanh đều tế độ

Pháp-giới vi-trần đều vào cả.

Vào nơi pháp-giới tất cả trần

Thân đó vô-tận không sai khác 

Ví như hư-không đều khắp cùng 

Diễn nói Như-Lai pháp rộng lớn.

Bực tất cả công-đức sáng chói

Rộng lớn như mây sức thù thắng

Trong biển chúng-sanh đều qua đến

Nói công-hạnh Phật pháp vô-đẳng.

Vì độ chúng-sanh nơi kiếp hải

Thắng hạnh Phổ-Hiền đều tu tập

Diễn nói các pháp như mây to

Thinh âm quảng-đại đều nghe khắp.

Quốc-độ thế nào mà xuất hiện

Chư Phật thế nào mà xuất hiện

Nhẫn đến tất cả biển chúng-sanh 

Mong theo nghĩa đó nói như thật.

Trong đây vô-lượng vô-biên chúng

Ở trước đức Phật đều cung kính

Vì chuyển thanh-tịnh diệu pháp-luân 

Tất cả chư Phật đều tùy hỉ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11648)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11973)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11124)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11361)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12078)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12574)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10777)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17999)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11738)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9962)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10188)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12362)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15357)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11259)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14339)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12120)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15384)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12013)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12426)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11197)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12098)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10629)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12567)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13181)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14853)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12705)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16588)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19679)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13118)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12676)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12276)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11869)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10910)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13548)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11967)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11853)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11647)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12778)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14532)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12627)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15672)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13638)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12915)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9885)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18028)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11182)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9092)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12192)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13070)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10324)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12207)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15326)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16618)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12231)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11497)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14282)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19717)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14161)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24622)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10705)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant