Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Nhất: Cái Trống Không Của Đạt Ma

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15838)
Tắc thứ Nhất: Cái Trống Không Của Đạt Ma

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 1

TẮC THỨ NHẤT

CÁI TRỐNG KHÔNG CỦA ĐẠT MA

 

blankTHÙY: Thấy khói bên kia núi biết là có lửa, thấy sừng bên kia tường biết là có trâu. Chỉ một hiểu ba, thoáng nhìn đã rõ, đó cũng như chuyện cơm nước thường ngày của tăng sĩ. Còn như cắt đứt các dòng nhánh, hiện lên ở phương đông, chìm đi ở phương tây, tung hoàng nghịch thuận, tự tại cho hay lấy, vào giây phút đó, thử nói xem là hành tung của kẻ nào? Thử nhìn vào những lời dây dưa của Tuyết Đậu.

CỬ: Lương Vũ Đế hỏi Đạt Ma Đại Sư, “Thế nào là sự thật cứu cánh siêu phàm?” Đạt Ma nói, “Trống không chẳng có gì là siêu phàm”. Vũ Đế hỏi, “Thế đối diện Trẫm là ai vậy?” Đạt Ma nói “Không biết”. Vũ Đế không hiểu, Đạt Ma bèn sang sông qua nước Ngụy. Sau đó Vũ Đế thuật lại câu chuyện trên cho Chí Công. Chí Công hỏi, “Thế bệ hạ đã biết người ấy là ai chưa?” Vũ Đế nói “Không biết”. Chí Công nói, “Đó chính là Bồ Tát Quan Âm đến để truyền tâm ấn của Phật.” Vũ Đế lấy làm ân hận, bèn sai sứ đuổi theo để mời Đạt Ma trở lại. Chí Công nói, “Đừng có nói là bệ hạ sai sứ đuổi theo, dù cho là cả nước có đuổi theo đi nữa người ấy cũng không trở lại đâu.”

BÌNH: Đạt Ma từ xa nhìn thấy đất này (Trung Hoa) có căn khí Đại Thừa, cho nên mới lênh đênh vượt biển mà tới, quyết ý trao truyền tâm ấn, khai ngộ nẻo mê, không lập văn tự, chỉ thẳng vào tâm, để người ta thấy tự tính của mình mà chứng thành Phật đạo[1].Nếu ai có thể thấy được như thế đương nhiên cũng được giải thoát, không còn bị tất cả các hệ lụy của ngôn ngữ ràng buộc, lập tức siêu việt lên tất cả chứng thành ngay Phật tính [2].Sau đó mới có thể nói chuyện với Vũ Đế cũng như thấy rõ cái chỗ an tâm của Nhị Tổ[3].Không còn những so đo phân biệt của cảm quan, cắt đứt tất cả những thứ này, bình thản tự tại, cần gì còn phải phân biệt thị phi, tính toán được mất? Tuy là như vậy, song mấy ai có thể như thế?

Vũ Đế thường mặc áo cà sa, đích thân giảng Kinh Phóng Quang Bát Nhã[4], giảng sống động đến mức khiến hoa trời rơi tơi tả xuống đất biến thành ngọc lưu ly. Vũ Đế còn học Đạo thờ Phật, ra lệnh cho thiên hạ xây chùa độ tăng, tu hành theo giáo lý. Thiên hạ gọi ông là Phật Tâm Thiên Tử.

Lúc Đạt Ma mới đến gặp Vũ Đế, Vũ Đế bèn hỏi , “Trẫm xây chùa độ tăng, như thế có công đức chăng?” Đạt Ma nói “ Chẳng có công đức gì cả”. Như thế chẳng khác gì xối nước bẩn lên đầu người ta. Nếu như ai hiểu được câu nói “ chẳng có công đức gì cả” này, kể như người ấy đủ khả năng đối diện Đạt Ma. Thử nói xem xây chùa độ tăng mà lại chẳng có công đức gì cả? ý nghĩa lời này là ở đâu?

Vũ Đế thường cùng Lũ Ước Pháp sư, Phó Đại Sĩ, và Chiêu Minh Thái Tử bàn luận về hai sự thật cứu cánh và công ước. Cứ theo như trong giáo lý thì sự thật cứu cánh là để giải minh phi hữu, sự thật công ước là để giải minh phi-vô. Cứu cánh và công ước không phải là hai, đó chính là sự thật tuyệt đối siêu phàm. Đó là chỗ vi diệu huyền ảo nhất mà hỏi Đạt Ma, “Thế nào là sự thật cứu cánh siêu phàm?” Đạt Ma nói, “Trống không chẳng có gì là siêu phàm”. Tất cả các tăng sĩ trong thiên hạ không ai nhảy ra khỏi chỗ này nổi cả. Đạt Ma dùng một đao cắt đứt tất cả chấp trước cho Vũ Đế. Nay người ta mới hiểu lầm làm sao, lại dở trò tinh quái trợn mắt mà nói, “trống không chẳng có gì ăn nhằm đến lời dạy của Đạt Ma cả.

Ngũ Tổ thường nói, “Chỉ cần người ta có thể hiểu thấu cái nguyên lý trống không chẳng có gì là siêu phàm này là người ta có thể về nhà ngồi bình thản.” Một bên thì thiên hạ lo tạo ra những phức tạp, song cũng chẳng hại gì đến việc Đạt Ma đập vỡ cái thùng đen[5] cho họ. Đạt Ma chính là người kỳ đặc nhất trong vấn đề này. Cho nên mới có lời nói, “ Nếu như có thể tham hiểu một câu, thì có thể hàng vạn câu một lúc”. Lúc ấy đương nhiên người ta có thể thấu rõ, nắm vững. Cổ nhân nói, “Tan Xương nát thịt không đủ trả, hiểu được một câu vượt trăm ức.”

Đạt ma đối diện trực tiếp với Vũ Đế, lận đận biết bao. Vũ Đế không giác ngộ, lại còn dựa vào kiến chấp, nhân-ngã, hỏi thêm một câu, “Đối diện với Trẫm là ai?” Đạt Ma từ bi cùng tột, lạinói với Vũ Đế “Không biết”. Khiến cho Vũ Đế kinh hoàng đi, không hiểu Đạt Ma muốn nói gì . Đến mức này mà còn chấp có hay không thì đều chẳng nhằm.

Đoan hòa thượng có lời tụng rằng;

Một tên bình thường một ưng rơi

Lại thêm tên nữa mất công thôi

Trở về Thiếu Thất ngồi yên đó,

Vũ Đế đừng mong ngỏ lời mời.

Lại nói, “Ai muốn mời Đạt Ma trở lại cơ?”

Vũ Đế không hiểu, Đạt Ma bỏ nước Lương mà đi, lão hán này chỉ còn biết lúng túng. Đạt Ma bèn qua sông đến nước Ngụy. Sau này có truyền kỳ nói lại rằng Đạt Ma đạp trên một cọng lau mà qua sông. Điều này không được rõ lắm, có thể là những lời tán tụng mà thôi.[6]Lúc ấy Ngụy Minh Đế đang trị vì. Minh Đế vốn thuộc về một chủng tộc phương bắc, gọi là Thác Bạt (Toba) sau này mới tự nhận là người Trung Quốc. Đạt Ma đến đó không đi gặp ai nữa mà lên thẳng núi Thiếu Lâm, ngồi thiền quay mặt vào tường suốt chín năm. Sau đó mới gặp Nhị Tổ. Người ở vùng đó gọi Đạt Ma là “ Bích Quán Bà La Môn”.

Vũ Đế sau đó hỏi Chí Công, Chí Công nói, “Thế bệ hạ đã biết người ấy là ai chưa?” Vũ Đế nói, “Không biết”. Thử nói xem cái “không biết” này là một hay khác với cái “không biết” của Đạt Ma. Giống thì có giống, nhưng mà không phải là một. Thiên hạ hay hiểu lầm mà bảo rằng, “Trước đó, lúc Đạt Ma nói “ không biết” là đang trả lời về Thiền, sau đó lúc Vũ Đế trả lời Chí Công, câu trả lời ấy chỉ nằm ở bình diện tri thức công ước.” May thay điều này chẳng có gì nhằm nhò với ý chỉ của Đạt Ma. Lúc ấy Chí Công hỏi như thế, thử hỏi xem, Vũ Đế phải trả lời như thế nào? Tại sao không một gậy đập chết Chí Công đi cho rồi để khỏi phải lộ vẻ hồ đồ? Vũ Đế lại thành thực mà khẩn khoản đáp là “ không biết”. Chí Công thấy cơ hội, bèn chụp lấy mà nói, “Đó chính là Bồ Tát Quan Âm đến để truyền tâm ấn của Phật.” Vũ Đế bèn ân hận mà sai sứ đuổi theo để mời Đạt Ma trở lại. Ngây ngô thật! Phải chi lúc Chí Công nói, “Đó chính là Bồ Tát Quán âm đến để truyền tâm ấn của Phật,” mà Vũ Đế tống cổ ông ta ra khỏi nước thì hẳn đã còn có gì hay ho hơn.

Theo truyền thuyết thì Chí Công mất vào năm Thiên Giám thừ mười ba (514 A.D), Đạt Ma thì mãi năm Đại Thông nguyên niên (520 A.D.) mới tới Lương. Như thế là cách nhau có đến bảy năm, làm thế nào có thể bảo là hai người có gặp nhau được? Đây hẳn phải là một truyền thuyết sai lầm. Song những gì đã ghi lại trong truyền thống, ở đây không bàn cãi làm gì. Điều quan trọng là phải hiểu cái ý chính của vấn đề mà thôi. Thử nói xem, Đạt MaQuan Âm, Chí Công cũng là Quan Âm, vậy thì ai thật sự là Quan Âm đây? Đã là Quan Âm thì tại làm sao lại còn có hai? Tại sao lại chỉ có hai, mà không hàng đoàn hàng lũ?

Sau đó ở Ngụy Đạt Ma có nghị luận với Quang Thống luật sưtam tạng sư Bồ Đề Lưu Chi. Đạt Ma gạt bỏ hình tướng chỉ thẳng vào tâm, song hai vị kia thì chấp trước thành kiến cho nên không chấp nhận nổi lập luận của Đạt Ma. Rốt cuộc còn sinh khởi lòng ganh ghét và mấy bận toan đầu độc Đạt Ma. Đến lần thứ sáu, vì hóa duyên đã trọn vẹn, và cũng đã tìm được người để truyền Pháp, bèn thản nhiên chấp nhận[7], rồi ngồi thẳng thắn mà mất. Đạt Ma được mai tang ở chùa Định Lâm trên núi Hùng Nhĩ. Sau này người nước Ngụy là Tống Vân trên đường đi sứ có gặp Đạt Ma trên ngọn Thông Lĩnh tay cầm một chiếc dép trở về Ấn Độ.

Vũ Đế thương tiếc, tự soạn văn bia rằng, “Ôi, thấy mà chẳng thấy, gặp mà chẳng gặp, ngàn xưa ngàn sau, oán thay hận thay.” Rồi lại tán thán rằng,” Tâm mà không thì trong sát na chứng được diệu giác, tâm mà có thì ngàn muôn kiếp vẫn đọa luân hồi.”

Thử nói xem hiện giờ Đạt Ma ở đâu? Đi qua rồi mà cũng chẳng biết.

TỤNG:

Sự thật trống không

Làm sao phân biện

Trước trẫm là ai?

Còn nói không biết

Do đó lén qua sông

không sinh gai góc

Cả nước đuổi theo cũng chẳng về,

Ngàn sau ngàn xưa nhớ mong suông

Đừng nhớ mong

Gió thổi mặt đất bao giờ ngưng

Sư nhìn hai bên nói:

Nơi này còn có Tổ Sư chăng/

Tự đáp, “Có”.

Đến đây rửa chân cho lão tăng

BÌNH: Tuyết Đậu tụng công án này, giống như y thể khéo múa Thái A Kiếm, uyển chuyển trong không, đương nhiên không phạm phải mũi nhọn. Nếu như không có cái khả năng này, thì vừa nhặt kiếm lên tay hẳn đã bị mũi nhọn đả thương. Đối với những người đủ mắt để nhìn thấy thì một niệm, một xuyên, một khen, một chê, chỉ dùng tứ cú mà định đoán cả một tắc công án. Phàm việc tụng cổ, thường là giảng về Thiền một cách vòng vo, nêu lên ý chính của vấn đề xưa, rồi theo các dữ kiệnkết thúc công án, chỉ có thế thôi.

Tuyết Đậu giáp mặt trực tiếp với công án, lập tức tụng rằng, “Sự thật trống không, làm sao phân biện?” Dưới câu đầu, Tuyết Đậu thêm một câu này, quả là kỳ đặc hết sức. Thử nói xem, rốt cuộc phải phân biện như thế nào? Dù cho có mắt sắt người đồng đi nữa, cũng chẳng biết đường nào mà rờ rẫm. Đến chổ này rồi, há có thể lấy tỉnh thức ra mà đắn đo được sao? Do đó mà Vân Môn nói, “ Như đánh đá lửa, giống ánh điện chớp”. Vấn đề này không nằm trong sự suy nghĩ hay ý tưởng. Đến lúc mà ông há miệng, thì đâu còn có công dụng gì nữa. Ngay lúc tính toán so đo vừa khởi, thì con chim cắt đã bay qua Tân La ( Cao Ly ) rồi.

Tuyết Đậu nói, “Các ông tăng trong thiên hạ, các ông phân biện vấn đề này như thế nào? Đối diện với trẫm là ai?” Lại còn nói “không biết”. Đây chính là chỗ từ tâm của Tuyết Đậu, nổ lực không ngớt để giúp thiên hạ. Thử nói xem “trống không” và “ không biết” là một hay hai. Nếu như người đủ khả năng hiểu, thế nào cũng phân nó làm hai. Thiên hạmọi nơi thường nói, “Tuyết Đậu cùng lắm chỉ nêu lại vấn đề lên một lần nữa mà thôi.” Đâu có biết rằng, bốn câu tụng đã nói lên hết ý nghĩa của công án rồi.

Sau đó vì lòng từ bi, Tuyết Đậu mới tụng sự tích nhân duyên rằng, “ Do đó lén qua sông, há không sinh gai góc?” Đạt Ma đến xứ này vốn để giải thoát thiên hạ khỏi chỗ dính dấp ràng buộc, nhổ đinh bạt chốt, cắt dọn gai góc. Tại sao Tuyết Đậu lại đi nói rằng Đạt Ma làm gai góc sinh? Cũng không phải chỉ vào buổi ấy, mà ngày nay dưới chân mọi người gai góc cũng đã thâm đến mấy trượng. “Cả nước đuổi theo cũng chẳng về, ngàn xưa ngàn sau nhớ mông suông”, đúng là không phải trượng phu. Thử nói xem, Đạt Ma ở đâu? Nếu thấy được Dạt Ma thì sẽ thấy được chỗ vì người của Tuyết Đậu

Tuyết Đậu lại sợ thiên hạ mải đuổi theo kiến thức thường tình, cho nên mở tung khóa chốt, để lộ chỗ thấy của mình mà nói rằng, “Đừng nhớ mong! Gió thổi mặt đất bao giờ ngưng.” Nếu đã không nhớ mong, thì các chuyện dưới chân mình làm sao mà nảy sinh? Tuyết Đậu nói, hiện giờ ở đây, gió trong thổi mặt đất, trên trời dưới đất, có chỗ nào là cùng cực? Tuyết Đậu đem tất cả các việc từ thiên cổ vạn cổ ném ngay ra trước mặt. Không phải chỉ với một mình Tuyết Đậu, mà ngay hiện giờ có chỗ nào là cùng cực? Ngay cả nơi con người các ông, có chỗ nào là cùng cực?

Tuyết Đậu lại vẫn sợ thiên hạ sẽ chấp trước vào chỗ này, cho nên lại mượn vào phương tiện, lớn tiếng nói, “Nơi này còn có Tổ Sư chăng?” Rồi tự trả lời, “Có”. Ở đây Tuyết Đậu chẳng còn ngần ngại bộc lộ lòng dạ của mình cho thiên hạ. Lại tự nói, “Đến đây rửa chân cho lão tăng”.Quả tình là hạ thấp quang huy của người ta một cách quá đáng, song lúc ấy Tuyết Đậu cũng đã cung hiến cả tay chân mình. Thử nói xem, ý của Tuyết Đậu nằm ở chổ nào? Đến chổ này rồi thì có gọi là lừa cũng được, có gọi là ngựa cũng được, mà có gọi là Tổ Sư cũng được. Song làm sao có thể gọi tên hay mô tả được? Ý kiến thông thường rằng Tuyết Đậu chỉ lợi dụng Tổ Sư, may thay chẳng có gì nhằm nhò với việc này cả. Nhưng mà thử nói xem, rốt cuộc là chuyện gì đây? “Chỉ cho lão hồ biết, không cho lão hồ hiểu”.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19703)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23962)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41219)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19694)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 23982)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21747)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23312)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27505)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26574)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29317)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33198)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20194)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25774)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20915)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31319)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38578)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21438)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44263)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29830)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42206)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22140)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45758)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32111)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23959)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24391)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29279)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33920)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27683)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32135)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21065)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28851)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21583)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28064)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22074)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21441)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19501)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19470)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19835)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19248)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29187)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20624)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28300)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23650)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33186)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31844)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21376)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39625)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21551)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19377)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26397)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24828)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21757)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22386)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29134)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22559)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20471)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23517)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21239)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35326)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24547)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant