Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Sáu Mươi Hai: Viên Ngọc Của Vân Môn

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15291)
Tắc thứ Sáu Mươi Hai: Viên Ngọc Của Vân Môn

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 7

TẮC THỨ SÁU MƯƠI HAI

VIÊN NGỌC CỦA VÂN MÔN

 

THÙY: Bằng vào vô sư trí phát vô tác diệu dụng; bằng vào vô duyên từ[1] làm thiện hữuđiều kiện. Ở trong một câu, có sát có hoạt; Ở trong một cơ, có buông có nắm. Thử nói xem, có ai từng được như thế. Thử nêu lên xem.

CỬ: Vân Môn dạy chúng rằng , bên trong trời đất, ở giữa vũ trụ, có một viên ngọc, ẩn trong núi hình [2]. Cầm đèn giấy đi vào Phật điện, đem tam môn đến đặt trên đèn.

BÌNH: Vân Môn nói, “Bên trong trời đất, ở giữa vũ trụ, có một viên ngọc, ẩn trong núi hình.” Thử nói xem, ý của Vân Môn là ở đầu cần câu hay ở trên đèn giấy? Đây là những lời dựa theo lời của Triệu Pháp Sư[3] trong Bảo Tàng Luận. Vân Môn dẫn ra để dạy chúng. Vào thời hậu Tấn Tăng Triệu ở trong vườn Diêu Tần viết luận. Lúc chép Kinh Duy Ma[4] Tăng Triệu mới biết rằng cái học của Lão Trang chưa tát cạn được cái vi diệu. Tăng Triệu mới lậy ngày La Thập làm thầy. Lại cùng tham học luôn cả với Bạt Đà Bà La (Buddhabhadra) Bồ Tát ở chùa Ngõa Quan, đem tâm ấn của tổ thứ hai mươi bảy từ Tây Trúc qua. Tăng Triệu đạt được chỗ hiểu thâm sâu. Một hôm Tăng Triệu gặp nạn, lúc sắp sửa bị hành hình, xin được hoãn bảy ngày để viết bộ Bảo Tàng Luận.

Vân Môn bèn dẫn bốn câu trong luận ấy để dạy chúng. Đại ý nói rằng làm sao có thể lấy viên ngọc vô giá mà ẩn trong ấm giới? Những lời dậy trong luận ấy đều phù hợp với các lời nói trong tông môn của chúng ta. Há không nghe Kính Thanh hỏi Tào Sơn, “Cái lý của không tất cánh vô thân là như thế nào?” Tào Sơn nói, “Lý thì như thế, còn sự thì như thế nào?” Kính Thanh nói, “Sự với lý đều như nhau cả.” Tào Sơn nói, “Ông có thể lừa Tào Sơn này được, nhưng mà làm sao lừa được mắt của các chư thánh?” Kính Thanh nói, “Nếu như không có mắt của các chư thánh, làm sao biết được nó không như thế?” Tào Sơn nói, “Cứ theo lẽ công thì mũi kim cũng đừng cho lọt, song dựa vào tư tình thì xe ngựa để cũng cho qua.”

Cho nên mới có câu nói rằng, “ Bên trong trời đất, ở giữa vũ trụ có một viên ngọc, ẩn trong núi hình.” Đại ý rằng mọi người ai cũng có đủ, ai cũng viên mãn. Vân Môn nêu lên để dạy chúng, kể đã rõ ràng hết sức, thầy ta không thể nào còn đi chú giải gì thêm cho các ông giống như các giảng sư được cả. Song Vân Môn vốn từ bi cho nên để thâm một cước chú cho các ông rằng, “Cầm đèn giấy đi vào Phật điện, đem tam môn đến đặt trên đèn.”

Thử nói xem, Vân Môn nói như vậy là ngụ ý gì? Há không nghe có bậc cổ nhân nói, “Vô minh thực tínhPhật tính, huyễn hóa không thân là Pháp Thân.”[5] Lại nói, “Phàm tâm tức là Phật tâm.” “Núi hình” tức là tứ đạingũ uẩn. “Có một viên ngọc, ẩn trong núi hình.” Cho nên mới có câu nói, “Chư Phật ở trong tâm, kẻ mê tìm bên ngoài. Ngọc vô giá trong lòng, mà cả đời không biết.” Lại nói rằng, “Phật tính hiển hiện rõ ràng, hữu tình[6] trụ tướng khó thấy. Nếu ngộ chúng sinh vô ngã, tính mình nào khác tính Phật?[7] Tâm là tâm bổn lai, mặt là mặt mẹ sinh. Đá tảng dễ di động , vậy này kh6ng cãi biến.”

Có người nhận cái chiêu chiêu linh linh[8] là viên ngọc quí kia, có điều không đạt được cái dụng cũng như cái diệu của nó. Cho nên chuyển động không được, khai mở không xong. Cổ nhân nói, “Cùng tắc biến, biến tắc thông.”

“Cầm đèn giấy đi vào Phật điện,” nếu như là việc thường tình thì có thể đo lường được. Song “đem tam môn đến đặt trên đèn,” có thể đo lường được chăng? Vân Môn một lúc đã phá tình thức, ý tưởng, đắc thất, thị phi cho các ông. Tuyết Đậu nói, “Tôi thích cái cơ biến mới mẻ của Thiều Dương (Vân Môn), cả đời chỉ lo nhổ đinh bạt chốt cho thiên hạ.”Lại nói, “Chẳng biết mấy người ngồi ghế cao,[9] kiếm sắt chặt đi khiến người thương. ”Khi Vân Môn nói, “Cầm đèn giấy đi vào Phật điện,” chỉ một câu này thôi cũng đủ cắt đứt hết các kiến chấp rồi; lại còn, “đem tam môn đến đặt trên đèn.” Nếu như các ông luận (công án) này thì như đá lửa như điện chớp.

Vân Môn nói, “Nếu như nhất định đi, cố chọn một đường vào. Chư Phật nhiều như vị trần, ở cả dưới chân các ông. Ba tạng thánh giáo, ở trên đầu lưỡi các ông. Song cũng vẫn không bằng được ngộ. Các thầy đừng có vọng tưởng, trời là trời, đất là đất, núi là núi, sông là sông, tăng là tăng, tục là tục.” Sau đó thầy ta lại nói tiếp, “Đem ngọn núi bất động trước mặt các ông đến đây xem.” Có ông tăng bước ra hỏi, “Lúc kẻ học thấy núi là núi sông là sông rồi thì như thế nào?” Vân Môn nói, “Tam môn tại sao lại bắt đầu từ đây?” Sợ các ông chết, cho nên Vân Môn lấy tay vạch một đường rồi nói, “ Nếu hiểu được thì là vị đề hồ, nếu không hiểu được nó lại thành ra độc được.” Cho nên mới có câu nói rằng, “Hiểu hiểu, lúc hiểu rồi chẳng có gì để hiểu. Huyền huyền, chỗ huyền vẫn đáng bị la.”

Tuyết Đậu lại nêu lên nữa, nói rằng, “Bên trong trời đất, ở giữa vũ trụ, có một viên ngọc, ấn trong núi hình. Treo ở trên tường, suốt cả chín năm, chẳng dám nhìn thẳng. Nếu như các nạp tăng bây giờ muốn thấy, ta sẽ đập cho mấy gậy vào lưng sống.”[10] Nhìn xem các bậc tông sư có khả năng, chẳng bao giờ đem thực Pháp ra trói buộc thiên hạ. Huyền Sa nói, “Bẫy rập không giữ được, kêu gọi chẳng quay đầu. Tuy thế vẫn cứ là con rùa thiêng lê lết cái đuôi.” Tuyết Đậu tụng rằng:

TỤNG

Nhìn nhìn! 

Bến cũ ai kẻ cầm nhánh câu? 

Mây chập chùng,

Nước miên man.

Hoa lau dưới trăng, hãy tự nhìn.

BÌNH: Nếu hiểu được lời của Vân Môn, các ông mới thấy được chỗ vì người của Tuyết Đậu. Thầy ta bỏ cước chú cho hai lời dạy cuối của Vân Môn rằng, “Nhìn nhìn!” Nếu như các ông hiểu lối trợn mắt nhướng mày, thì chẳng có gì là nhằm nhò cả. Cổ nhân nói, “Linh quang độc chiếu, vượt trên căn trần.[11] Thể lộ chân thường, không nệ văn tự. Tam tính vô nhiểm, vốn tự viên thành. Chỉ lìa vọng duyên, tức như như Phật,” Nếu như cứ ngồi ì ra đó mà trợn mắt nhướng mày, há có thể siêu việt được căn trần sao?

Tuyết Đậu nói, “Nhìn nhìn!” Vân Môn như thể đang cầm nhánh câu trên bến cũ; trong khi mây chập chùng nước miên man. Trăng sáng phản chiếu hoa lau, hoa lau phản chiếu trăng sáng. Chính vào lúc ấy, thử nói xem, đó là cảnh giới gì vậy? Nếu như các ông có thể trực tiếp thấy được, trước sau chỉ giống như một câu mà thôi.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19703)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23962)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41220)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19694)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 23984)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21747)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23312)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27505)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26574)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29317)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33199)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20195)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25776)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20915)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31319)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38578)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21439)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44263)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29830)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42212)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22141)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45760)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32111)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23959)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24392)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29281)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33920)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27683)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32135)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21066)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28852)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21583)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28065)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22074)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21441)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19502)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19470)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19835)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19249)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29188)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20625)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28300)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23650)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33186)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31844)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21377)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39626)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21551)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19378)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26397)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24830)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21757)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22387)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29135)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22559)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20471)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23517)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21239)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35327)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24547)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant