Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Ba Mươi Bốn: Ngưỡng Sơn Hỏi Từ Đâu Đến

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15977)
Tắc thứ Ba Mươi Bốn: Ngưỡng Sơn Hỏi Từ Đâu Đến

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 4

TẮC THỨ BA MƯƠI BỐN

NGƯỠNG SƠN HỎI TỪ ĐÂU ĐẾN

 

CỬ: Ngưỡng Sơn hỏi một ông tăng, “Ông mới từ đâu đến vậy?” Ông tăng nói, “Lô Sơn.” Ngưỡng Sơn nói, “Đã từng lên Ngũ Lão Phong chơi chưa?” Ông tăng nói, “ Chưa.” Ngưỡng Sơn nói, “ Như thế là thầy chưa từng bao giờ đi chơi núi cả.” Vân Môn nói, “Những lời ấy là đều bởi vì từ bi, cho nên thầy ta mới có lời nói chuyện của kẻ ngã trên cỏ.”

BÌNH: Chỗ cốt yếu thử người, mở miệng đã biết tiếng. Cổ nhân nói, “Có biết bao nhiêu là người cứ xoay chuyển trong ngữ mạch.” Nếu như là người có mắt trên đỉnh đầu, thì vừa mới nêu lên đã hiểu ngay ý hướng. Nhìn xem một vấn một đáp của họ, rõ ràng rành mạch làm sao. Tại sao Vân Môn lại nói rằng những lời ấy là đếu bởi vì từ bi, cho nên thầy ta mới có lối nói chuyện của người ngã trên cỏ? Cổ nhân đến chỗ này rồi giống như gương sang trên khung, ngọc sáng trong lòng bàn tay. Hồ đến Hồ hiện, Hán đến Hán hiện. Một con ruồi cũng không thoát qua được sự quan sát của họ. Thử nói xem, tại sao lại vì từ bi mà có lối nói chuyện của người ngã trên cỏ? Quả thật là nguy hiểm vời vợi, đến chỗ này rồi thì phải là một người vững lắm mới có thể đương đầu được. Vân Môn nói rằng, “Ông tăng kia đích thân từ Lô Sơn đến, tại sao (Ngưỡng Sơn) lại nói rằng “ thầy chưa từng bao giờ đi chơi núi cả?”

Một hôm Qui Sơn hỏi Ngưỡng Sơn, “Nếu như có các tăng sĩ ở các nơi đến, thầy dùng gì để thử họ?” Ngưỡng Sơn nói, “Đệ tử có cách để thử họ.” Ngưỡng Sơn nói, “ Bình thường đệ tử mỗi khi thấy có ông tăng nào đến, chỉ dơ phất trần lên rồi nói với ông ta rằng, “Ở các nơi có cái này không?” Nếu như ông ta nói gì, đệ tử chỉ nói với ông ta rằng, “ Cái này tạm gác qua một bên, cái kia thì như thế nào?” Qui Sơn nói, “Đó chính là răng và móng của những kẻ hướng thượng.”

Há không nghe chuyện Mã Tổ hỏi Bách Trượng, “Ông từ đâu đến vậy?” Bách Trượng nói, “Từ dưới núi đến.” Mã Tổ nói, “Trên đường có gặp một người nào không?” Bách Trượng nói, “ Chẳng hề gặp ai cả.” Mã Tổ nói, “Tại sao lại chẳng hề gặp ai cả?” Bách Trượng nói , “Nếu như có gặp ai thì tôi đã nói lại với hòa thượng rồi.” Mã Tổ nói, “Ông đem cái tin tức ấy từ đâu đến vậy?” Bách Trượng nói, “ Kẻ hèn này có lỗi thật.” Mã Tổ nói, “ Chính lão tăng mới là có lỗi.”

Cách hỏi ông tăng của Ngưỡng Sơn giống y như vậy. Lúc ấy khi thầy ta nói, “Đã từng lên Ngũ Lão Phong chơi chưa?” Ông tăng kia nếu như là một người vững vàng hẳn đã chỉ nói, “Đúng là tai họa”. Song ông ta lại nói, “chưa”. Ông tăng này đã không phải là một chuyên gia, thì tại sao Ngưỡng Sơn không theo lệ mà cư xử để tránh khỏi bao nhiêu là dây dưa sau này? Thầy ta lại đi nói, “Như thế là thầy chưa từng bao giờ đi chơi núi cả”Cho nên Vân Môn mới nói, “ Những lời ấy là đều bởi vì từ bi, cho nên thầy ta mới có lối nói chuyện của kẻ ngã trên cỏ.” Nếu như là lời ở ngoài cỏ thì hẳn đã không như thế.

TỤNG

Ra cỏ vào cỏ,

Ai biết mà tìm?

Mây trắng chập chùng,

Mặt trời rực rỡ.

Nhìn bên trái không tì vết,

Ngó bên phải đã già nua.

Người không thấy Hàn Sơn Tử?

Đi quá nhanh.

Mười năm không về được.

Quên mất đường đã đến.

BÌNH: “Ra cỏ vào cỏ, ai biết mà tìm?” Tuyết Đậu biết ý hướng của Ngưỡng Sơn. Đến chỗ này, một tay dơ lên một tay hạ xuống, “ Mây trắng chập chùng, mặt trời rực rỡ.” Giống y như cỏ rậm rạp, khói mịt mù.” Đến chỗ này rồi, chẳng có một tơ hào thuộc phàm, chẳng có một tơ hào thuộc thánh. Cả (pháp) giới không từng che nó, từng hiện tượng cũng không giấu được nó. Đây chính là cái gọi là vô tâm cảnh giới.Lạnh không thấy lạnh, nóng không thấy nóng. Tất cả chỉ là một đại giải thoát môn.” Nhìn bên trái không tì vết, ngó bên phải đã già nua.”

Lão Tại Tán Hòa Thượng an cư trong hang đá trên Hành Sơn, đường Túc Tông nghe danh thầy ta, bèn sai sứ đến mời. Sứ giả đến trước hang của thầy ta tuyên bố rằng, “ Thiên thử xuống chiều, tôn giả mau ra tạ ơn.” Lại Tán bèn khơi trong đống lửa đốt bằng phân bò ra cũ khoai mà ăn. Nước mũi lạnh chảy xuống hai bên mép, song trước sau chẳng buồn trả lời. Sứ giả cười nói, “Tôn giả nên gạt nước mũi đi có được không?” Lại Tán nói, “ Ta đâucó thì giờ để gạt nước mũi cho người tục!” Rốt cuộc cũng chẳng đứng dậy. Sứ giả về tâu lại cho Túc Tông, Túc Tông hết lời ca ngợi. Con người thanh cao trong sạch như vậy, đâu có chịu để cho người khác sai sử. Luôn luôn giữ mình được thẳng thắn, giống như thể là do thép đúc thành. Giống như Thiện Đạo Hòa Thượng sau khi bị đàn áp, không trở lại làm tăng nữa. Thiên hạ gọi thầy ta là “ Thạch Thất Hành Giả.” Mỗi khi dẵm trên cối giã gạo là quên cả bước chân của mình. Có ông tăng hỏi Lâm Tế, “Thạch Thất Hành Giả quên bước chân của mình có nghĩa là gì?” Lâm Tế nói, “ Rơi xuống hố sâu.” Pháp Nhãn viết trong bài tụng “Viên Thành Thực Tính” rằng, “Tình vọng là lý cực, làm sao ví dụ được. Nơi đến đêm trăng sương, tha hồ rụng suối kia. Quả chín khỉ bu đầy, qunh co núi lạc đường. Ngẩng đầu còn trăng sang ở phía tây nhà ta.”

Tuyết Đậu nói, “Người không thấy Hàn Sơn Tử? Đi qua nhanh, mười năm không về được. Quên mất đường đã đến.” Có bài thơ của Hàn Sơn Tử rằng ”Muốn tìm chốn an thân, Hàn Sơn ở lâu được. Gió nhẹ thổi rặng tùng, ở gần nghe càng hay. Dưới kia có người già, lẩm nhẩm đọc Hoàng Lão. Mười năm không về được, quên đường đã đến đây.” Vĩnh Gia cũng nói, “Tâm là căn, pháp là trần. Cả hai giống như vết trên gương.Tì vết sạch đi ánh sáng hiện, tâm pháp đều quên tính tức chân.” Đến chỗ này rồi thì phải như đần như độn mới thấy công án này được. Nếu như không đến được mức độ này thì chỉ là lăng xăng trong ngôn ngữ mà thôi, biết đến bao giờ mới dứt?

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19703)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23964)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41221)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19696)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 23990)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21747)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23312)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27507)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26575)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29319)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33199)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20197)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25778)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20915)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31320)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38578)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21443)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44264)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29832)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42214)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22141)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45766)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32113)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23961)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24393)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29281)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33920)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27684)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32136)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21066)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28855)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21585)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28066)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22075)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21441)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19502)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19470)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19835)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19250)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29188)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20625)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28303)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23651)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33188)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31844)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21378)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39628)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21552)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19381)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26397)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24831)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21759)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22395)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29135)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22559)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20471)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23518)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21241)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35328)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24548)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant