Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Ba Mươi Ba: Trần Thượng Thư Viếng Từ Phúc

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15491)
Tắc thứ Ba Mươi Ba: Trần Thượng Thư Viếng Từ Phúc

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 4

TẮC THỨ BA MƯƠI BA

TRẦN THƯỢNG THƯ VIẾNG TỪ PHÚC

 

THÙY: Đông tây khôngbiện, nam bắc chẳng phân. Từ sang đến tối, từ tối đến sang. Có thể bảo là người ấy ngủ chăng? Có lúc đôi mắt như thể sao chổi, song có thể bảo là người ấy ngủ chăng? Có lúc gọi nam là bắc, thử nói xem đó là hữu tâm hay vô tâm? Người ấy là đạo nhân hay là thường nhân? Nếu như có thể thấu qua được chỗ này, các ông mới hiểu được ý hướng, cũng như hiểu được rằng cổ nhân có như thế hay không? Song thử nói xem, đây là thời tiết gì? Xin nêu lên xem.

CỬ: Trần Tháo Thượng Thư đến viếng Từ Phúc. Từ Phúc thấy Trần Tháo đến bèn vẽ một vòng tròn. Trần Tháo nói, “Đệ tử đến như thế này, vốn đã là bất tiện rồi, hà huống lại còn vẽ them một vòng tròn?” Từ Phúc bèn đóng cửa phương trượng. Tuyết Đậu nói, “Trần Tháo chỉ có một con mắt.”

BÌNH: Thượng Thư Trần Tháo là người đồng thời với Bùi HưuLý Cao. Phàm mỗi khi thấy có ông tăng nào đến cũng trước tiên mời thụ trai, rồi lại cho ba tăm đồng tiền để thử thách. Một hôm Vân Môn đến. Vừa trông thấy Vân Môn Trần Tháo đã hỏi, “ Sách Nho thì khác rồi, song tam thừa mười hai phần giáo tất nhiên có các bậc thầy. Tại sao các nạp tăng phải đi hành cước như thế?” Vân Môn nói, “Thượng thư đã từng hỏi bao nhiêu người rồi?” Trần Tháo nói, “Hiện giờ tôi đang hỏi thượng tọa.” Vân Môn nói, “Tạm gác cái hiện giờ” qua một bên, thế nào là ý nghĩa của các giáo lý?” Trần Tháo nói, “ Cuốn vàng trục đỏ,”[4] Vân Môn nói, “Đó chỉ là ngữ ngôn văn tự, thế nào là ý nghĩa của các giáo lý?” Trần Tháo nói, “Miệng muốn nói mà lời chết, tâm muốn duyên mà lự vong.” Vân Môn nói, “Miệng muốn nói mà lời chết, là để đối với ngôn ngữ; tâm muốn duyên mà lự vong là để đối với vọng tưởng. Thế nào là ý nghĩa của các giáo lý?” Trần Tháo không nói gì được. Vân Môn nói, “Nghe nói Thượng Thư có đọc Kinh Pháp Hoa phải không?” Trần Tháo nói, “ Phải.” Vân Môn nói, “ Trong Kinh có nói rằng tất cả các mưu sinh sản nghiệp đều không vi nội với thực tướng. Song thử nói xem trên cõi phi phi tưởng thiên[5] hiện giờ có bao nhiêu người thối chuyển?” Trần Tháo lại không nói gì được. Vân Môn nói, “ Thượng Thư chớ có nên khinh suất như thế. Các sư tăng gạt bỏ tam kinh ngũ luận để vào chốn tùng lâm.Mười năm hai mươi năm mà cũng vẫn còn chưa làm gì được. thượng Thư làm sao có thể hiểu được?” Trần Tháo cúi lậy nói, “Kẻ hèn nay quả thật có tội.”

Một hôm Trần Tháo cùng các quan lên lầu, đang nhìn quanh thì thấy có vài ông tăng đến. Một ông quan nói, “Những người đang đến kia đều là các Thiền tăng.” Trần Tháo nói, “Không phải.” Ông quan kia nói, “Sao ngài biết là không phải?” Trần Tháo nói, “Để họ đến gần rồi tôi sẽ thử cho ông thấy.” Mấy ông tăng vừa đến trước lầu, Trần Tháo hốt nhiên gọi, “ Thượng tọa!” Mấy ông tăng ngẩng đầu lên. Trần Tháo nói với mấy ông quan kia, “ Các ông đã tin lời tôi nói chưa?” Chỉ có mỗi một mình Vân Môn là không bị Trần Tháo thử thách.

Trần Tháo cũng đã từng tham kiến Mục Châu[6].Một hôm đến viếng Từ Phúc. Từ Phúc thấy Trần Tháo đến bèn vẽ một vòng tròn. Từ Phúc vốn là bậc tôn túc trong dòng của Qui Sơn- Ngưỡng Sơn. Thầy ta bình thường thích lấy phương pháp” cảnh trí” ra tiếp thiên hạ. chonên vừa thấy Thượng Thư Trần Tháo đến bèn vẽ một vòng tròn. Song làm gì được? Bởi vì Trần Tháo cũng là một chuyên gia, đâu có để cho người khác chơi khăm. Trần Tháo tự kiểm điểm, nói rằng, “Đệ tử đến như thế này vốn đã là bất tiện rồi. Làm sao kham nổi việc thầy vẽ thêm một vòng tròn nữa?” Từ Phúc đóng cửa lại. Loại công án này được gọi là” trong lời biện rõ, trong câu ẩn cơ”.[7]Tuyết Đậu nói, “ Trần Tháo chỉ có một con mắt.” Tuyết Đậu có thể nói là có mắt trên đỉnh đầu. Song thử nói xem, ý của thầy ta ở chỗ nào? Từ Phúc vẽ một vòng tròn cũng rất là hay. Song nếu ai cũng đều như thế cả, các nạp tăng làm sao mà vì người khác được? Tôi xin hỏi các ông,nếu như lúc ấy các ông là Trần Tháo, các ông phải nói gì để đừng bị Tuyết Đậu bảo là “ Trần Tháo chỉ có một con mắt”? Cho nên Tuyết Đậu mới đạp đổ tất cả mà tụng rằng:

TỤNG

Châu chạy vòng vòng kêu như ngọc,

Ngựa bon lừa chạy lên thuyền sắt.

Phân phó hải sơn vô sự khách,

Lúc câu rùa thả một bẫy rập.

Tuyết Đậu lại nói, “Các nạp tăng trong thiên hạ nhảy không ra.”

BÌNH: “Châu chạy vòng vòng kêu như ngọc, ngựa bon lừa chạy lên thuyền sắt.” Khúc đầu của bài tụng của Tuyết Đậu chỉ tụng vòng tròn kia mà thôi.Nếu như các ông hiểu được, các ông giống như một con cọp có sừng.Một chút này cần các ông phải đập thủng đáy thùng đen, dứt tận hết cơ quan, một lúc vứt bỏ tất cả đắc thất thị phi, không hiểu đó là huyền diệu. Rốt cuộc phải hiểu như thế nào? Cái này cần phải “ ngựa bon lừa chạy lên thuyền sắt”. Phải ở chỗ này mà thấy thì mới được. Cần phải “phân phó hải sơn vô sự khách.” Nếu như trong bụng các ông vẫn cừn (vướng mắc) một chút gì đó, ắt các ông không thể nào đảm đương nổi. Ở đây phải là hạng người mà hữu sự hay vô sự, vị tình hay thuận cảnh, Phật hay là Tổ cũng không làm gì được thì mới có thể đảm đương nỗi. Nếu như (vẫn còn thấy rằng) có Thiền để tham, có chút nào cảm thức phàm thánh, ắt chẳng thể nào đảm đương nổi. Song lúc đảm đương nổi, các ông phải hiểu lời Tuyết Đậu nói, “Lúc câu rùa thả một bẫy rập” như thế nào? Câu rùa cần phải có bẫy rập mới được. Do đó mà Phong Huyệt nói, “Quen câu kình ngư khuấy biển lớn, lại gặp nhái bén lội trong bùn.” Lại cũng nói rằng, “ Rùa lớn đừng đem ba núi đi, ta muốn dạo trên đỉnh Bồng Lai.” Tuyết Đậu lại nói, “Các nạp tăng trong thiên hạ nhảy không ra.” Nếu như người ta là một con rùa lớn, hẳn sẽ không có kiến giải của một ông tăng. Nếu như người ta là một ông tăng, người ta hẳn sẽ không có kiến giải của một con rùa lớn.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19703)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23962)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41220)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19694)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 23985)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21747)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23312)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27505)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26575)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29317)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33199)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20196)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25777)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20915)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31319)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38578)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21441)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44264)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29830)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42212)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22141)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45761)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32111)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23959)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24393)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29281)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33920)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27683)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32136)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21066)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28853)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21584)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28065)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22074)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21441)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19502)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19470)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19835)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19249)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29188)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20625)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28300)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23650)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33187)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31844)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21377)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39627)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21551)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19379)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26397)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24830)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21757)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22387)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29135)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22559)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20471)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23517)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21239)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35327)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24548)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant