Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Mười Lăm: Một Câu Nói Ngược Của Vân Môn

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15606)
Tắc thứ Mười Lăm: Một Câu Nói Ngược Của Vân Môn

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 2

TẮC THỨ MƯỜI LĂM

MỘT CÂU NÓI NGƯỢC CỦA VÂN MÔN

 

THÙY: Đao giết người,kiếm cứu người. Phong qui của người xưa, cốt yếu của đời nay. Thử nói xem, đao giết người là gì? Kiếm cứu người là gì? Thử nêu lên xem. Có ông tăng hỏi Vân Môn.

CỬ: “Không phải là tâm cơ trước mắt, cũng chẳng phải là sự việc trước mắt, lúc ấy thì như thế nào?” Vân Môn nói, “Một câu nói ngược.”

BÌNH: Ông tang này quả là một tay thông thạo cho nên mới biết hỏi như thế. Câu hỏi thoạt tiên có vẻ như là hỏi thêm, song thật ra là để giải bày chỗ hiểu biết của mình. Đó cũng gọi là câu hỏi có ẩn tàng mũi nhọn trong ấy. Nếu như không phải là Vân Môn, khó có ai biết phải đối xử như thế nào với ông tăng này. Song có khả năng như Vân Môn thì khi có câu hỏi đặt ra không thể không trả lời. Tại sao vậy? Vị thầy thành thạo thì giống như thể một tấm gương sáng trên giá. Nếu như có người Hồ[21] đi ngang thì có bóng người Hồ hiện trên gương , có người hán đi ngang thì có bóng người Hán hiện trên gương.

Cổ nhân nói, “ Nếu như muốn hiểu thấu, đừng nên lấy câuhỏi ra mà hỏi câu hỏi. Tại sao vậy? Bởi vì câh hỏi nằm trong câu trả lời và câu trả lời nằm trong câu hỏi. Các bậc thánh đâu từng có một vật gì cho người khác đâu? Làm gì mà có Thiền với Đạo cho các ông? Nếu như các ông không tạo nghiệp địa ngục thì sẽ không phải rước lấy quả địa ngục.Nếu như không tạo nhân thiên đàng thì sẽ không đạt được quả thiên đàng. Tất cả các nghiệp duyên đều là tự làm tự chịu. Cổ nhân đã nói rõ ràng với các ông, “Nếu luận việc này, thì không nằm ở ngôn cú. Nếu như hệ ở ngôn cú thì tam thừa mười hai phần giáo, há không phải đều là ngôn cú cả sao? Làm gì cần phảiTổ Sư từ Ấn Độ sang nữa?”

Trong tắc trên Vân Môn nói, “Một lời đúng.” Ở đây Vân Môn lại nói, “Một lời ngược.” Chỉ khác mỗi một chữ mà tại sao lại có thiên sai vạn biệt như thế? Thử nói xem, các rắc rối là ở chỗ nào?

Cho nên mới có câu nói, “ Pháp được thực hành theo pháp[22], Pháp tràng được kiến lập tùy theo chỗ.” “Không phải là tâm cơ trước mắt cũng chẳng phải là sự vật trước mắt, lúc ấy như thế nào?” Câu ấy chỉ đáng người ta gật đầu một cái mà thôi. Nếu như là người có mtắ, chẳng thể lừa được người ấy chút nào. Bởi vì câu hỏi hơi rắc rối cho nên câu trả lời cũng phải như thế. Kỳ thực Vân Môn đang cưỡi ngựa của kẻ trộm. Có người hiểu lầm nói rằng, “ Vốn dĩ là lời của chủ, song khách lại nói mất.” Cho nên Vân Môn mói nói, “ Một lời ngược”. Song đâu có gì là đúng.

Ông tăng kia hỏi rất hay, “ Không phải là tâm cơ trước mắt, cũng không phải là sự vật trước mắt,lúc ấy như thế nào?” Tại sao Vân Môn không trả lời gì khác mà chỉ nói, “ Một lời ngược.” Vân Môn trong một lúc đập tan hết ( kiến chấp của) ông ttăng kia. Tuy nhiên đến chỗ này rồi mà còn nói, “ Một lời ngược,” thì giống y như thể là khoét một vết thương trên da thịt lành. Tại sao vậy? “Một khi ngôn ngữ khởi lên là lập tức có nhiều dị kiến.” Nếu như khôngngôn ngữ, thì chiếc cột trụ này chiếc đèn giấy kia từng bao giờ có ngôn ngữ? Các ông đã hiểu chưa? Nếu đến chỗ này rồi mà vẫn chưa hiểu, các ông cần phải xoay chuyển lắm mới có thể hiểu được cái cốt yếu của vấn đề này.

TỤNG:

Một lời ngược,

phân từng tiết.

Đồng tử đồng sinh cùng quyết đoán,

Tám vạn bốn ngàn phải lông phượng?

Ba mươi ba người vào hang cọp,

Đặc biệt thật!

Bóng trăng trong dòng nước chảy xiết.

BÌNH: Tuyết Đậu quả là một tay thành thạo. Dưới câu thứ nhất lại nói thêm “phân từng tiết.” Rõ ràng buông bỏ hết để nắm tay cùng đi với Vân Môn[23]. Tuyết Đậu có khả năng buông bỏ tất cả, thầy ta dám vào bùn vào nước với các ông, dám sống dám chết với các ông. Cho nên Tuyết Đậu mới tụng như thế. Kỳ thực thầy ta chỉ muốn cởi bỏ các dính dấp, nhổ đinh bạt chốt cho các ông mà thôi.

Ngày nay thiên hạ lại bị vướng vào ngân ngữ mà sinh ra kiến chấp. Như Nham Đầu nói, “Tuy Tuyết Phong cùng sinh trong một dòng với ta, song lại không chết cùng một dòng với ta. ”Nếu như Vân Môn không phải là người nhìn thấu tất cả mọi tâm cơ làm thế nào thầy ta có thể đồng sinh đồng tử với các ông được? Tại sao thầy ta có khả năng như thế? Bởi vì Vân Môn đã thoát ra khỏi tất cả các lậu pháp như được mất, thị phi rồi. Cho nên Động Sơn nói, “ Nếu như muốn phân biện được cái người tu đạo hướng thượng kia là chân hay ngụy thì có ba loại lậu pháp (làm tiêu chuẩn): tình lậu, kiến lậu và ngữ lậu. Nếu như còn kiến lậu thì tâm cơ không rời chỗ cổ định được và người ta bị chìm vào biển độc. Nếu như còn tình lậu thì trí thức dao động và chỗ kiến giải của người ta rơi vào thiên chấp. Nếu như còn ngữ lậu thì người ta đánh mất cái căn bản của diệu thể, tâm cơ không phân biệt được thủy chung. Các ông phải tự biết lấy ba lậu pháp này.

Ngoài ra cũng có ba cái huyền diệu: huyền diệu bên trong thể, huyền diệu trong câu nói, và huyền diệu trong huyền diệu. Cổ nhân đến chổ này rồi, kể như đạt được toàn cơ đại dụng. Gặp sinh đồng sinh với các ông, gặp tử đồng tử với các ông. Họ (cổ nhân) nằm trong miệng hổ, buông thõng tay chân, ngàn dặm vạn dặm tùy theo sự dẫn dắt của các ông. Tại sao vậy? Các ông phải đối lại với họ một điều này thì mới được.

“Tám vạm bốn ngàn phải lông phượng?” Đó là tám vạn bốn ngàn thánh chúng trên núi Linh Thứu. “Không phải là long phượng”: sách Nam Sử nói rằng đời nhà Lưu Tống (420-479) có Hứa Siêu-tông là người Dương Hạ thuộc Trần quận là con của Hứa Phượng vốn là người bác học, văn tài xuất chúng. Trong triều đình không có ai so sánh được với ông, người đường thời cho là nhân tài độc đáo nhất. Giỏi làm văn cho nên làm chức thượng thị ở Vương Phủ. Lúc Vương Mẫu là Ân Thục mất. Siêu-Tông làm bài văn viếng dâng lên. Vũ Đế (trị vì 454-464) đọc bài văn, tán thưởng nồng nhiệt rằng, “ Siêu-Tông quả thật có lông phượng.” Có bài thơ cổ như sau,Triều bãi khói mây đầy tay áo, thơ thành châu ngọc trong nét bút.Muốn biết lời chiếu vua hay đẹp, hiện giờ trên hồ có lông phượng.” Ngày xưa trên hội Linh sơn, tứ chúng [24] tụ họp đông đảo, đức Thế Tôn đưa cành hoa lên, chỉ độc có ngài Ca Diếp khẽ động nét mặt mĩm cười, tất cả những người khác không hiểu đó là tông chỉ gì. Cho nên Tuyết Đậu mới nói, “ Tám vạn bốn ngàn phải lông phượng, ba mươi ba người vào hang cọp.”

A Nan hỏi Ca Diếp, “Đức Thế Tôn ngoài việc truyền lại Kim lam cà sa, có truyền riêng pháp gì nữa không?” Ca Diếp gọi, “A Nan!” A Nan đáp lại. Ca Diếp nói, “ Gỡ cột treo phán trước cổng chùa xuống.” Sau đó sự truyền thừa từ vị tổ này cho vị tổ khác, kể cả Ấn Độ lẫn Trung Hoa gồm có ba mươi vị. Tất cả đều có khả năng vào hang cọp. Cổ nhân nói, “không vào hang cọp, làm sao bắt được cọp con?” Vân Môn chính là loại người này, sẵn sàng đồng sinh đồng tử với người khác.Bậc thầy trong Thiền tông muốn giúp người khác, cần phải được như vậy. Ngồi trên ghế của bậc thầy, giúp cho các không đập vỡ được (các kiến chấp) và dám vuốt râu cọp.Phải đạt đến mức độ này thì mới đủ khả năng làm thầy. Phải có đầy đủ bảy điều kiện nơi mình thì mới có thể đồng sinh đồng tử với người khác được. Cái gì cao thì đè xuống, những kẻ thấp thì nâng lên, những kẻ thiếu thì cho thêm. Những kẻ ở trên đỉnh cao thì cứu xuống nơi đồng hoang, còn những kẻ lạc nơi đồng hoang thì cứu lên đỉnh cao. “Nếu như các ông vào vãc dầu lò than, ta cũng vào vạc dầu lò than.” Kỳ thực chẳng có gì cả, chỉ vì muốn gỡ những cái dính dấp, nhổ đinh bạt chốt, tháo cương gỡ yên cho các ông. Bình Điền hòa thượng có một bài tụng hết sức tuyệt: “Linh quang không mờ, kế nay vạn cổ. Vào tông môn này, đừng nuôi kiến chấp.” Đặc biệt thật! Bóng trăng trong dòng nước chảy xiết.” Quả là có cách xuất thân, cũng như có tâm cơ để cứu người. Tuyết Đậu nêu lên, để người khác tự giác ngộ lấy sinh cơ của mình. Đừng có theo lời nói của người khác, nếu như các ông theo lời nói của người khác thì đúng là bóng trăng trong dòng nước chảy xiết. Các ông làm thế nào để đạt được bình an đây? Buông bỏ một lần đi!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22307)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 16027)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 15039)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18968)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14454)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18639)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14437)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13597)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13559)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11827)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13267)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13674)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13945)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13256)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15028)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16167)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 11087)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16462)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11912)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17605)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12882)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13720)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12867)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14864)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16399)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13138)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12102)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12778)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12923)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12794)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14183)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14140)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16489)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12384)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14392)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11335)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11041)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13201)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13899)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13171)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13010)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13516)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12742)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10239)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13975)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10242)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13711)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16274)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11977)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12987)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11663)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12686)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10803)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 11003)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10950)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11904)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12773)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11071)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12624)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11338)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant