Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phẩm Thứ Tám: Thiền Na Ba La Mật

30 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 12456)
Phẩm Thứ Tám: Thiền Na Ba La Mật


PHÁT BỒ ĐỀ TÂM KINH LUẬN
Bồ Tát Thế Thân tạo
Tam Tạng Pháp Sư Cưu La Ma Thập dịch Hán
Tỳ Kheo Thích Nhất Chân dịch Việt

PHẨM THỨ TÁM
THIỀN NA BA LA MẬT

 Bồ Tát tu tập thiền định như thế nào? Thiền định nếu là vì để tự lợi, lợi tha, cả hai cùng lợi, thiền định như thế thì sẽ có thể trang nghiêm được đạo Bồ Đề.

Bồ Tát vì muốn điều phục chúng sinh, khiến họ lìa xa được khổ não nên tu thiền định. Tu thiền định là khéo nhiếp tâm mình, không để cho bất cứ loạn tưởng nào vọng tác. Đi, đứng, nằm, ngồi trói niệm vào trước mặt. Quán sát (theo hai chiều) nghịch thuận, nào là đầu lâu, đỉnh (đầu), xương sống, cánh tay, khuỷu tay, ngực, sườn, xương hông, xương đùi, ống quyển, mắt cá chân, an ban đếm hơi thở, như thế gọi là sơ tâm tu định của Bồ Tát.

Do tu thiền định nên không thọ các ác pháp, tâm thường khoan khoái như thế, gọi là tự lợi. Giáo hoá chúng sinh khiến họ tu chính niệm, như thế gọi là lợi tha. Đem tam muội thanh tịnh lìa ác, với giác quán, do chính mình tu ra giáo hoá các chúng sinh, khiến họ được lợi ích như chính mình, như thế gọi là cùng lợi. Do tu thiền định nên đạt được tám giải thoát, cho đến Thủ Lăng Nghiêm, Kim Cương tam muội, như thế gọi là trang nghiêm đạo Bồ Đề.
Thiền định do ba pháp mà sinh. Thế nào là ba?

  1. một là huệ do văn,
  2. hai là huệ do tư,
  3. ba l à huệ do tu.

Từ ba pháp ấy từ từ mà sinh tất cả các tam muội.

Thế nào là văn huệ ? Đúng như các pháp được nghe, tâm thường ưa thích. Lại nghĩ như sau: các pháp vô ngại giải thoát v.v…của chư Phật, phải do đa văn mà đắc thành tựu. Nghĩ như thế rồi, đối với mọi lúc cầu pháp càng thêm tinh cần, ngày đêm thường thích nghe pháp không thấy chán hay đủ, như thế gọi là văn huệ.

Thế nào là tư huệ ? Tư niệm quán sát tướng như thật của tất cả các pháp hữu vi, chính là vô thường, khổ, không, vô ngã, bất tịnh, niệm niệm sinh diệt, không lâu là diệt hoại. Song các chúng sinh bị ưu, bi, khổ não, thường ghét trói buộc, chỉ vì lửa tham, khuể, si thiêu đốt, làm tăng trưởng khối khổ não lớn ở đời sau. (Song, thật ra chúng) không có thật tính, y như huyễn hoá. Thấy như thế rồi, nên đối với tất cả pháp hữu vi liền sinh chán lìa, ra sức tinh cần hướng về trí huệ Phật. Tư duy về trí huệ Như Lai không thể suy lường, không thể nói hết, có thế lực lớn không ai có thể hơn được, có thể đến được thành lớn an ổn, vô uý không bị hồi lại, có thể cứu được vô lượng chúng sinh khổ não, chí nguyện tiến cầu Đại Thừa vô thượng, như thế gọi là tư huệ.

Thế nào là tu huệ ? Từ sơ quán về cốt (xương), cho đến A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, đều gọi là tu huệ: lìa các pháp không thiện thuộc dục giới, có giác có quán là sinh hỉ lạc, nhập vào sơ thiền. Diệt giác và quán, bên trong thanh tịnh, tâm một chỗ, không giác không quán định sinh hỉ lạc, nhập vào nhị thiền. Lìa hỉ nên (thật) hành xả, tâm niệm (khinh) an (thuộc) huệ, thân cảm thọ lạc. Các hiền thánh thường thuyết thường xả, thường niệm thọ lạc nhập vào tam thiền. Do đoạn khổ đoạn lạc, do trước hết diệt ưu hỉ, nên không khổ không lạc hành xả, niệm, tịnh, nhập vào tứ thiền. Do vượt qua tất cả sắc tướng, diệt tất cả các tướng hữu đối, không niệm tất cả các tướng biệt dị, nên biết được hư không vô biên, thời sẽ nhập vào hư không vô sắc định xứ. Vượt qua tất cả hư không tướng, biết được thức là vô biên, thời sẽ nhập vào vô sắc thức định sứ. Vượt qua tất cả thức tướng, biết được không có gì hết (vô sở hữu), thời sẽ nhập vào vô sở hữu, vô sắc định sứ. Vượt qua tất cả vô sở hữu sứ, biết được phi hữu tưởng phi vô tưởng an ổn, thời sẽ nhập vào vô sắc phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ. (Tuy thế song) chỉ vì tuỳ thuận các pháp mà hành, song không thích đắm, cầu vô thượng thừa thành tối chính giác. Như thế gọi là tu huệ. Bồ Tát do văn tư tu huệ này, tinh cần nhiếp tâm, sẽ có thể thành tựu thông minh tam muội Thiền Na Ba La Mật.

Lại nữa, Bồ Tát tu định lại có mười pháp hành không cùng (hành) chung với Thanh Văn, Bích Chi Phật. Mười những gì đây?

  1. Một là tu định không có tôi ngã, do bởi có đủ các thiền định của Như Lai.
  2. Hai tu định không đam vị, không đắm trước, lìa bỏ nhiễm tâm không cần an lạc cho riêng mình.
  3. Ba là tu định gồm đủ các nghiệp (thần) thông, do vì biết các tâm hành của chúng sinh.
  4. Bốn là tu định để biết các tâm do bởi độ thoát tất cả chúng sinh.
  5. Năm là tu định thật hành đại bi, do vì đoạn phiền não kết của các chúng sinh,
  6. Sáu là tu định các thiền tam muội, so bởi khéo biết sự nhập xuất vượt quá ba cõi,
  7. Bảy là tu định thường được tự tại, do vì có đủ tất cả các thiện pháp,
  8. Tám là tu định tâm mình tịch diệt, do vì vượt hơn các thiền tam muội của nhị thừa,
  9. Chín là tu định thường nhập trí huệ, do vì vượt quá các pháp thế gian đến bờ kia,
  10. Mười là tu định có thể hưng khởi chính pháp, do vì tục hưng Tam Bảo khiến không đoạn tuyệt.

Định như thế không cùng có chung với Thanh Văn, Bích Chi Phật.

Lại nữa, do vì (để) biết tất cả tâm phiền não của chúng sinh, cho nên tu tập các pháp thiền định trợ thành trụ tâm, khiến cho (các) thiền định này trụ tâm bình đẳng, như thế gọi là định. Định (bình) đẳng như thế sẽ (bình) đẳng với KHÔNG, vô tướng, vô nguyện, vô tác. (Nếu) KHÔNG, vô tướng, vô nguyện, vô tác (bình) đẳng, thời chúng sinh (bình) đẳng. (Nếu) chúng sinh (bình) đẳng, thời chư pháp (bình) đẳng. Nhập vào (bình) đẳng như thế gọi là định.

Lại nữa, Bồ Tát tuy tuỳ theo thế (gian) mà hành, không lìa ngoài thế (gian), song (Bồ Tát) luôn luôn xả tám pháp thế gian, diệt tất cả các kết, lìa xa thói ồn náo, thích sống một mình. Bồ Tát tu hành thiền định như thế, tâm an chỉ trụ, lìa các sự việc thế gian.

Lại nữa, Bồ Tát tu định, do (để) có đủ thông, trí, phương tiện, huệ. Thế nào là thông? Thế nào là trí? Hoặc thấy sắc tướng, hoặc nghe âm thanh, hoặc biết tâm người, hoặc nhớ (được) quá khứ, hoặc có thể đến khắp được các thế giới của chư Phật. Như thế gọi là thông. Nếu biết sắc tức pháp tính, hiểu rõ âm thanh, tâm hành, tính tướng tịch diệt ba đời đều bình đẳng; biết chư Phật giới bằng với hư không tướng song không chứng diệt tận. Như thế gọi là trí. Thế nào là phương tiện? Thế nào là huệ? Khi nhập vào thiền định thời sinh đại từ bi không bỏ thệ nguyện, tâm (thệ nguyện) như kim cương, quán xét thế giới của chư Phật để (theo đó) trang nghiêm đạo trường Bồ Đề. Như thế gọi là phương tiện. Tâm mình vĩnh viễn tịch (diệt), không có ngã, không có chúng sinh, tư duy bổn tính của chư pháp không loạn, thấy chư Phật giới đồng với hư không, quán những gì được trang nghiêm đồng với tịch diệt. Như thế gọi là huệ.

Như thế gọi là Bồ Tát tu hành thiền định, do (để có đủ) thông, trí, phương tiện, huệ. Bốn sự sai biệt này đều (hiện) hành, (nên) được gần với A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Bồ Tát Ma Ha Tát tu thiền định không còn chút ác tâm, do (như thiền định là) pháp bất động. Như thế thời sẽ gồm đủ Thiền Na Ba La Mật.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32343)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6395)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11026)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30189)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30270)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7860)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 11962)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12129)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11450)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12480)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34281)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9668)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52062)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10580)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10331)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10535)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10311)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12905)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16009)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21601)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9491)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 6983)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10260)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12447)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12614)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16067)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16325)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13686)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16328)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11885)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13651)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14199)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9088)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11635)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11162)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16046)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14213)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16049)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12579)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11904)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11638)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15518)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11360)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13875)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11860)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12413)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14787)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11834)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 12969)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14303)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20448)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13048)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10823)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20524)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14182)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20076)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17393)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13792)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31687)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11879)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant