Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương Năm: Chánh Niệm, Tỉnh Giác

02 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 11884)
Chương Năm: Chánh Niệm, Tỉnh Giác

CHƯƠNG NĂM
CHÁNH NIỆM, TỈNH GIÁC

Gìn giữ tâm ý

1. Ai giữ giới Bồ tát 
Phải giữ gìn tâm ý 
Nếu không, không duy trì
Bất cứ giới luật nào.

2. Voi điên tuy gây hại
Nhưng không thể nào bằng
Con “voi tâm“ phóng dật
Mang đến bao tai ương

3. Luôn dùng thừng chánh niệm 
Cột chặt “voi tâm“ điên
Thì tai ương biến mất
Phước lành hiện đến liền. 

4-5. Điều phục được tâm ý
điều phục tất cả
Sư tử, voi, gấu, rắn 
Và tất cả kẻ thù
Cùng lính canh địa ngục
Quỷ Dạ xoa, La Sát
Đều bị trói tất cả.

6. Phật đã tuyên bố rằng 
Hiểm họa và lo sợ
Với khổ đau vô tận
Đều do tâm phát sinh. 

7-8. Hình cụ trong địa ngục 
Do ai tạo tác nên? 
Nền sắt nóng hỏa ngục 
Nữ nhân kia từ đâu? 

Phật dạy rằng tất cả 
Do ác tâm biến ra 
Bởi thế trong ba cõi 
Tâm mình đáng sợ nhất. 

9-10. Nếu bố thí cao cả
Đạt được nhờ xóa nghèo
Chẳng lẽ Phật xưa kia
Không đạt hạnh bố thí
thế gian vẫn nghèo? 

Bởi vậy tâm bố thí
Cả tài sản, công đức
bố thí rốt ráo
Phát xuất từ nội tâm

11. Lùa cá tôm đến đâu
Để khỏi bị săn giết?
Vĩnh viễn dứt ác tâm
thành tựu giới độ

12. Sân si đầy thế gian 
Làm sao hàng phục hết? 
Hàng phục được tâm sân 
hàng phục tất cả. 

13-14. Làm sao đủ da thuộc 
Để phủ kín địa cầu? 
Nhưng chiếc dép da này
Sẽ bao trùm mặt đất. 

Cũng vậy với ngoại cảnh
Tuy chưa làm chủ được 
Nhưng làm chủ tâm mình
Có gì quí giá hơn?

15. Làm thiện bằng thân, miệng
Nhưng tâm lại tán loạn
Thì khó đạt được phước
Để lên cõi Phạm Thiên (5)
Trong khi chỉ một mình
Tâm thanh tịnh cũng đủ.

16. Phật dạy dù tụng niệm 
Tu khổ hạnh lâu năm 
Mà tâm cứ tán loạn 
Thì cũng vô ích thôi. 

17. Những ai tìm hạnh phúc
Chạy trốn mọi khổ đau
Sẽ tiếp tục lạc đường
Nếu không hiểu cái tâm
Kỳ diệu chứa mọi pháp.

Chánh niệm và tỉnh giác

18. Bởi thế nên cẩn thận 
Gìn giữ trọn tâm ý
Giữ giới tu luyện tâm 
Đâu cần tu pháp khác. 

19. Giữa đám đông hỗn loạn
Ta gìn giữ vết thương
Không để ai đụng đến;
Giữa cuộc đời hung ác
Ta phải giữ tâm mình
Như ta giữ vết thương. 

20. Ta gìn giữ vết thương 
Vì sợ người đụng đau
Sao ta không giữ gìn
Vết thương của tâm ta
Cho khỏi bị đè bẹp
Dưới chân núi địa ngục? 

21. Nếu hành trì như vậy 
Ta cứng rắn, tinh tấn
Dù ở giữa người ác 
Hay ở giữa người lành. 

22. Thà để mất lợi dưỡng 
Mất tài sản, thanh danh
Mất thân xác, mạng sống
Quyết không để mất tâm. 

23. Tôi chấp tay nguyện cầu
Cho những ai ước mong 
Gìn giữ được tâm ý
Đều luôn luôn duy trì
Chánh niệm và tỉnh giác

24. Người đau không đủ sức
Làm bất cứ việc gì 
Cũng vậy, bất cứ ai 
Thiếu chánh niệm, tỉnh giác 
Sẽ không còn đủ sức
Để làm những việc lành

25. Người tâm không chánh niệm 
Không còn ghi trong trí 
Lời giáo huấn tu hành 
Như nước rỉ bình nứt. 

26. Biết bao người thông thái
Sùng tíntinh tấn
Nhưng vì không chánh niệm
Nên phạm tội ô uế. 

27. Tên giặc không chánh niệm 
Luôn rình cướp tỉnh giác
Vét sạch phước tích lũy
Đưa người vào nẻo ác. 

28. Ái dục như lũ giặc
Cướp gia tài phước đức
Hủy hoại tâm chánh niệm
Phá đường đến cõi lành . 

29. Tuyệt không để chánh niệm 
Rời khỏi cửa tỉnh giác;
Nếu nó đi lang thang
Phải gọi nó quay lại;
Nó phải nghĩ cảnh khổ 
Trong ba cõi địa ngục 
Để an trú chánh niệm

30. Hạnh phúc thay những ai 
Sống cạnh thầy đáng kính
Tuân theo lời giáo huấn 
Để trau dồi chánh niệm

31-32. “Chư Phật, chư Bồ tát
Nhìn thấu suốt mọi điều
Ta đứng trước các ngài
Đâu dấu được điều chi”. 

Nếu có suy nghĩ ấy
Sẽ sinh lòng hổ thẹn 
Và trong tâm luôn luôn
Có mặt của chư Phật. 

33. Chánh niệm như lính canh
Trước cửa ngõ của tâm
Nhờ đó mà tỉnh giác
Mãi mãi được có mặt.

34. Nếu ý xấu manh nha 
Phải thấy ngay tai họa.
Vậy phải giữ chánh niệm 
Như cây bám chặt đất . 

35. Không bao giờ nên nhìn 
Dáo dác và mông lung 
Mắt thường nhìn thẳng xuống
Như trong lúc ngồi thiền

36. Để cho mắt nghỉ ngơi 
Thỉnh thoảng nhìn chân trời 
Khi có người xuất hiện 
Hãy nhìn thẳng chào hỏi. 

37. Trên đường, nên đứng lại
Nhìn rõ khắp bốn phương 
Lúc dừng nghỉ dưỡng sức 
Hãy quan sát sau lưng . 

38. Kiểm tra kỹ trước sau 
Rồi nhận định hoàn cảnh
Tùy nhu cầu hành động
tiến tới hay lui. 

39-40. Trước khi ta hành động
Nên ý thức rõ ràng
”Đây tư thế của thân”
Và trong khi hành động
Cũng luôn luôn quán xét
Tư thế của thân mình. 

Cũng vậy, thường quán xét 
Tâm ý như voi điên
Buộc vào trụ chánh niệm
Không cho nó chạy loạn. 

41. Người tu tập thiền định 
Luôn luôn giữ chánh niệm
Thường quán sát tự hỏi 
Tâm ý mình ở đâu? 

42. Lúc nguy, khi lễ lạc
Hoặc trong khi bố thí
Khó giữ được chánh niệm 
Nên buông giới hạnh nhỏ. 

43-44. Quyết định làm việc này
Không nên nghĩ việc khác 
Tâm trí phải chuyên chú 
Làm xong từng việc đã. 

Được vậy việc mới thành 
Nếu không, thì hai việc 
Chẳng việc nào hoàn tất
Chánh niệm chẳng gia tăng

45. Hãy quyết tâm từ bỏ 
Xem kịch, nói chuyện phiếm 
Hãy tinh tấn đoạn trừ 
Tâm tham đắm thứ ấy. 

46. Hãy nhớ lời đức Phật 
Từ bỏ việc vô nghĩa
Như bức cỏ, vẽ đường
Đập đất đá vỡ tan

47. Trước khi muốn đi đứng 
Hoặc trước khi nói năng 
Phải kiểm soát tâm ý
Đưa nó vào chánh niệm

48. Nếu ý khởi tham ái 
Tâm manh nha nổi giận 
Hãy tạm dừng nói, làm 
Như cây đứng lặng yên. 

49-50. Khi tâm ý lăng xăng 
Ngạo mạn hoặc kiêu căng 
Tự mãn hoặc thô bạo 
Lém lĩnh hoặc lừa dối 

Tự khen và chê người 
Nói những lời khinh bạc 
Nói những lời gây gổ 
Hãy như cây đứng yên

51. Muốn lợi lộc, danh tiếng 
Muốn sai sử người khác 
Muốn kẻ khác hầu hạ 
Hãy như cây đứng yên

52. Khi muốn nói và làm 
Khiến người mất lợi ích 
Để mưu cầu lợi mình 
Hãy như cây đứng yên

53. Khi bồn chồn lười biếng
Nhát sợ, không biết thẹn 
Nói vô nghĩa, thiên vị 
Hãy như cây đứng yên

54. Khi thấy tâm ô nhiễm
Lăng xăng việc vô nghĩa
Hãy dùng phép đối trị
Kiên trì an định tâm. 

55-57. Không nên để phân tâm
Vì những việc tranh chấp
Hãy luôn đem an vui
Làm cho người hạnh phúc.
Với đức tin thâm sâu 
Vững vàngkiên quyết 
Biết xấu, sợ nhân quả.

Đừng sinh tâm chê bai
Kẻ ngược ngạo, ngu si
Nên mở lòng thương họ
Vì họ bị vô minh

Vả lại tôi đã nguyện
Vì lợi mình lợi người 
Tôi không nên phạm tội 
Vậy phải luôn quán tưởng 
Rằng tôi là vô ngã
Tôi là một ảo tưởng

58. Nên luôn tư duy rằng 
Nhiều kiếp mới thành người 
Vậy phải giữ tâm sáng 
Vững như núi Tu Di.

Thân

59. Hỡi này tâm ý ơi
Ngươi tự vệ ra sao
Khi kên kên háu đói 
Mổ xé thân thể ngươi? 

60. Sao ngươi xem thân này 
bản ngã của ngươi? 
Ngươi với nó khác nhau 
Mất nó ăn nhằm gì! 

61. Này tâm ý ngu si 
Ngươi xem khúc gỗ sạch
Không phải là thân ngươi
Nên ngươi không bám víu
Sao lại bám bộ máy 
Cấu tạo từ bẩn dơ? 

62-63. Hãy dùng tâm quán tưởng 
Tách da ra khỏi thịt 
Dùng trí tuệ làm dao 
Tách thịt rời khỏi xương. 

Rồi chẻ tách xương ra 
Phân tách tủy bên trong 
Quan sát cho thật kỹ 
Thực chất nó là gì? 

64. Dẫu tìm tòi cẩn thận
Vẫn không thấy bản chất 
Của bất cứ vật nào.
Tại sao còn tham luyến 
Nâng niu tấm thân này? 

65. Ngươi không thể nào ăn
Thân thể dơ bẩn này 
Không uống máu, ăn lòng
Vậy giữ nó làm chi? 

66. Tốt nhất xem thân này
thức ăn quạ, cáo
Chỉ nên giữ thân này
Giúp ta làm việc thiện

67. Dù ngươi bám giữ thân 
Thần chết cũng không tha 
Cướp lấy thẩy cho quạ 
Ngươi làm gì được đây? 

68-69. Khi tớ bỏ ra đi 
Chủ không cho cơm áo 
Thân này sẽ bỏ ngươi 
Cưng dưỡng nó làm gì? 

Trả đủ lương cho nó 
Chớ cho thêm quá mức
Ôi tâm của ta ơi! 
Đối với thân của ngươi 
Hãy xử sự như thế. 

70. Hãy xem thân như thuyền 
Dùng để chở chúng sinh
Đưa họ từ bờ khổ 
Sang bên bờ giải thoát

71. Hãy tự chủ thân tâm 
Luôn lộ vẻ vui tươi 
Đừng cau mày giận dữ 
Hãy làm người bạn tốt,
Chân thành của chúng sinh

72. Khi di dời ghế giường 
Đừng gây tiếng động lớn 
Mở cửa cũng nhẹ nhàng 
Luôn tránh tiếng ồn ào

73. Sếu, mèo và kẻ trộm 
Hành động rất lặng lẽ 
Để đạt được mục tiêu 
Bồ tát cũng nên thế . 

74. Làm học trò tất cả
Cung kính nhận lời khuyên
Của bậc thầy hướng dẫn
Dù ta chẳng yêu cầu.

Nguyên tắc ứng xử

75. Ai khéo giảng chánh pháp
Ta nên ngõ lời khen
Ai làm phước làm lành
Ta vui mừng ca tụng

76. Kín đáo khen người khác 
công đức của họ 
Nghe người khác khen mình 
Tự xét xứng đáng không? 

77-78. Ai làm được việc gì 
Mang lại nguồn hạnh phúc
Không thể mua bằng tiền
Thì ta hãy cùng vui 
Với công đức kẻ ấy. 

Làm vậy không gây hại
Đời sau được vui hơn
Nếu sinh lòng ganh tị
Ta sẽ gặt khổ đau
Đời sau càng khổ nữa. 

79. Nói năng phải minh bạch 
Dễ nghe, thấm tận tim
Phát xuất nơi từ tâm
Nhu hòa và chính xác

80. Hãy nhìn ngắm chúng sinh 
Với lòng dạ từ bi
Và nghĩ rằng nhờ họ 
Mà ta sẽ thành Phật

81. Phước lớn được thành tựu 
Nhờ tín tâm vững bền 
Nhờ đối trị việc ác 
Nhờ cúng ba ruộng phước (6) 

82. Phát xuất tận đáy lòng 
Ta thường làm việc thiện 
Điều lành hãy tự làm 
Không giao cho kẻ khác. 

83. Bố thítrì giới 
Phải tăng tiến mỗi ngày
Đừng chê nhỏ, theo lớn 
Nên thực hiện mọi hạnh. 

84. Nhận thức được như vậy
Nên hiến mình làm thiện
Có thể phạm giới cấm
Vì lợi ích chúng sinh

85. Chỉ ăn những gì cần
Chia sớt thức ăn uống
Cho những vị tu sĩ 
Cho kẻ khổ, cô đơn
Cho người rơi xuống thấp
Bồ tát cho tất cả
Trừ ba bộ áo quần. 

86. Thân phục vụ chánh pháp 
Nên không để tổn thương 
Nhờ vậy mau thực hiện
Ước nguyện cứu chúng sinh

87. Không hy sinh thân mạng
Cho kẻ thiếu từ bi
Bồ tát chỉ xả thân
mục đích tối thượng

88. Không thuyết pháp cho người 
thái độ bệnh hoạn 
Đội mũ, không cung kính 
Cầm gậy, cầm binh khí . 

89. Không thuyết pháp cho người 
Khác phái ở một mình 
Không nói pháp thâm sâu 
Cho kẻ thiếu thông minh 
Nhưng cũng phải cung kính 
Mọi pháp dù sâu cạn (7)

90. Không nên giảng Tiểu thừa
Cho người đủ điều kiện
Lãnh hội pháp Đại thừa
Không được thu hút người
Bằng cách giảng sai kinh
Và sai chú Mật tông (8) 

91. Không được nhổ nước bọt
Và vứt tăm xỉa răng
Bừa bãi nơi công cộng
Không được phép phóng uế
Lên đất đai canh tác
Và nguồn nước sạch trong. 

92. Khi ăn chớ đầy miệng 
Há miệng, nhai ra tiếng
Ngồi không đong đưa chân 
Không xoa tay vào nhau. 

93. Không đi xe, ngủ đêm 
Chung với người khác phái 
Hầu tránh sự dị nghị 
Khiến người mất niềm tin

94. Không nên dùng ngón tay 
Chỉ đường hoặc ra lệnh 
Mà phải tỏ lịch sự 
Đưa nguyên bàn tay phải . 

95. Không đưa tay vẫy gọi
Trừ khi gọi gấp rút
Búng ngón tay thành tiếng 
Bằng không mất uy nghi

96. Hãy ngủ trong chánh niệm 
Nằm đúng theo tư thế
Như khi Phật nhập diệt 
Lúc tỉnh giấc, dậy liền. 

97. Phật dạy vô số hạnh 
Không thể nào kể hết 
Pháp thanh lọc tâm này 
Nên gắng thực hành ngay. 

98. Ngày như đêm ba lần 
Tụng niệm Kinh Ba Phần (9) 
Y theo tâm Bồ đề 
Giải trừ dần ác nghiệp

99. Bất cứ hoàn cảnh nào
Do ta hoặc người tạo
Phải tinh tấn thực hành 
Những lời đức Phật dạy. 

100. Bất cứ giáo pháp nào
Đưa đến sự giải thoát
Con Phật đều thực hành
Được vậy, sẽ gặt phước. 

101. Bồ tát làm mọi hạnh
Vì lợi ích chúng sinh
Trực tiếp hay gián tiếp
hồi hướng tất cả
sự nghiệp giác ngộ

102. Dù phải mất tính mạng 
Bồ tát không xa lìa 
Các bậc thiện trí thức 
Tinh thông nghĩa đại thừa

Nguồn gốc giới luật

103. Để biết cách hầu Thầy
Nên học những phép tắc
Trong truyện Cát Tường Sinh (10) 
Và thêm các kinh khác. 

104. Nên đọc các tạng kinh
Có trình bày giới luật
Trước hết hãy tìm đọc 
”Thánh xứ hư không tạng”. 

105. Kinh “Học xứ tập yếu” 
Đã diễn rộng lý do 
Vì sao phải tu hành
Vậy cần đọc bộ luận 
”Chúng học xứ tập yếu”. 

106. Hoặc cũng nên tìm đọc 
”Nhất thiết kinh tập yếu” 
Và cũng cần đọc kỹ 
Song luận của Long Thọ

107. Kinh luận trên ghi rõ 
Điều cấm, điều nên theo
Tu đúng lời kinh dạy 
Giữ lòng tin trên đời. 

108. Định nghĩa của chánh niệm
Tóm gọn lại như sau: 
Luôn quán sát thật kỹ
Trạng thái Thân và Tâm. 

109. Tụng niệm để thực hành 
Đọc suông không có ích 
Nếu chỉ đọc toa thuốc 
Làm sao trị bệnh lành?

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11724)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 12043)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11197)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11434)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12141)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12647)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10862)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 18101)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11819)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 10042)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10241)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12451)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15452)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11315)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14422)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12211)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15499)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12094)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12491)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11285)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12168)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10702)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12624)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13266)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14972)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12789)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16673)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19772)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13206)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12769)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12367)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11960)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 11012)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13632)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 12042)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11936)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11730)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12856)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14629)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12710)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15768)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13725)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 13003)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9958)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18119)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11260)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9154)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12281)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13147)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10380)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12272)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15470)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16702)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12325)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11594)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14377)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19852)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14243)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24737)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10775)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant