Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Lá Thư Thay Lời Tựa

28 Tháng Năm 201000:00(Xem: 7049)
Lá Thư Thay Lời Tựa

Trí Khải Đại Sư 
PHÁP HOA HUYỀN NGHĨA

PHẬT HỌC THIÊN THAI TÔNG

Nguyên tác: The Profound Meaning of the Lotus Sutra by Haiyan Shen - Từ Hoa dịch
Nhà xuất bản Phương Đông 2008

 

Lá thư thay lời tựa

Trong số chín bản kinh Đại thừa được biết như Phương Đẳng (Vaipulya sutra), kinh Pháp Hoa quan trọng nhất, là bản kinh đại biểu và cực kỳ phổ thông. Thánh điển nầy được xem là giáo pháp cuối cùngtối thượng của Thế Tôn, cùng lúc vừa là nền tảng vừa là cực điểm vinh quang của tư tưởnghành trì thuộc Phật giáo. Bản kinh tự nói lên là ‘vua của các Kinh’, là phần tinh túythâm diệu nhất của giáo pháp Thế Tôn. Tàng kinh xưng tánsùng bái Phật cùng khen ngợi Bồ tát hạnh. Bản kinh hứa hẹn rằng theo đường Phật giúp chúng sinh đạt đến giải thoát và đến mục tiêu cuối cùng, thành Phật. Bản kinh biểu dương Phật giáo như vị cứu tinh hoặc là một tôn giáo mang lại tự do, ban vô úycứu khổ hằng triệu người trên toàn thể Á Châu. Điều nầy cũng giải thích cho sự siêu quần của giáo pháp. ngôn từ của thánh điển rất biểu thị, dẩn khởi và chiêu cảm. Tư tưởng được diễn bày, học thuyết sâu sắc và những nhắn gởi được thông đạt qua những ẩn dụtương tự những sự ám chỉ ngấm ngầm cần được đưa ra.

Giáo pháp kinh Pháp Hoa biện minh học thuyết Nhất Thừa (Ekayama) là giáo thuyết bao hàm và dung hòa Thanh văn, Duyên giácBồ tát. Giáo nghĩa giải thích nguyên lý Không. Không cũng được diễn tả như Tathata, Samata, Dharmakaya, Nirvana, Paramartha, Satya, Parinispana, Madyamapratipad v.v... Trong một đường hướng hy hữu, bản kinh đưa ra học thuyết Nhị Đế của Long Thọ Bồ Tát để làm thế nào hai chân lý Thế Tục đếThắng Nghĩa đế được phân biệt, liên quantối thượng. Thế tục đế có cho đời sống thế gianthắng nghĩa đế có để đạt đến Niết bàn. Thực tại là một nhưng có hai đường lối trực nghiệm. Rốt ráo, không hề có một khác biệt mảy may giữa hai điều trên. Thế tục đếphương tiệnthắng nghĩa đếmục tiêu.

Tựa đề tập sách nầy rất dẩn khởi và ý nghĩa. Các nhà chú giảihọc giả khác nhau đã chia ra nhiều phân nhánh sâu rộng về tựa đề nầy. Danh từ Saddharma nghĩa là pháp như thực hoặc cái nhìn về đường lối của đời và thực tại. Danh từ Pundarika tiêu biểu cho hoa sen trắngbiểu tượng của sự thuần khiết, toàn hảo và là biểu trưng cho sự tinh vẹn. Pháp được Phật thuyết ra và thực hành có thể sánh với hoa sen trắng. Một trong những ý nghĩa như hoa sen mọc trong nước bùn lầy nhưng không bị ô nhiểm và không ngừng lan tỏa hương thơm, như pháp Phật đã bừng lên từ những hỗn loạn của địa cầu nhưng đã phổ độ cho muôn loài vượt qua sợ hải. Xa hơn, chúng sinh được khuyến nhủ nhận ra Phật tánh qua hạnh nguyện Bồ Tát, là người sống giữa đời ác trược nhưng không bị ảnh hưởng ví như hoa sen vươn lên từ vũng lầy nhưng không mất hương thơm. Điều tương tự nầy cũng tìm thấy trong thánh thư Bhagavadgita là bản văn tiêu biểu cho văn hóa Ấn Độ.

Dựa vào kinh Pháp Hoa, Thiên Thai tông của Phật giáo Trung Hoa đã ra đời. Tên của tông phái được đặt theo tên ngọn núi Thiên Thai nơi vị sáng lập tông phái sống. Tông phái nầy được đặc biệt công nhậntông phái Phật giáo đầu tiên ở Trung quốc, mặc dù trước Thiên Thai tông cũng có những tông phái sớm hơn mang ảnh hưởng dân tộc Ấn. Thiên Thai tông nhìn kinh Pháp Hoa như một bản kinh đầy uy lực vi diệu trong văn hóatư tưởng Phật giáo. Sắc thái đặc thù của Thiên Thai tông hiển minh Tam Đế, được gọi là ‘bất khả tư nghì’ dựa vào học thuyết Trung Đạo của Long Thọ Bồ Tát song đôi với tông phái Duy Thức (Vijnanavada) của Thết Thân (Vasubandhu) và những tông phái khác. Học thuyết về Tam Đế là :

(a) Không quán : hủy diệt ảo tưởng của ý niệm từ giác quan và đưa về trí tuệ bát Nhã.

(b) Giả quán : xóa tan sự ô nhiểm của thế giớimang đến sự cứu rổi cho tất cả tội lổi.

(c) Trung quán : Hủy diệt ảo ảnh là nguồn gốc của vô minhđạt đến trí tuệ giải thoát.

Triết thuyết nền tảng của tông Thiên Thai có thể được biểu trưng bằng một vòng tròn đồng tâm, ví như vòng tròn trong vòng tròn, tất cả vòng tròn có chung một tâm điểm. Đó là một-trong-ba và ba-trong-một. Một vòng tròn là Không (samsara). Vòng thứ hai là vòng tròn của Niết Bàn (Nirvana) hoặc như thực, bao gồm vòng tròn đầu tiên. Vòng thứ ba là vòng tròn đồng nhất giữa Không và Niết Bàn. Tất cả hòa nhập vào một vòng tròn viên mãn. Một vòng tròn vô thủy vô chung nên là biểu tượng toàn hảo cho thể tánh.

Trí Khải Đại Sư là người sáng lập ra tông Thiên Thai. Đại sư là một thiền sư và cũng là một nhà tư tưởng vĩ đại, người mà sự hiểu biếtchú giải giáo thuyết và phương pháp hành trì của Phật giáo căn cứ trên cái học thâm viễn cũng như thực chứng thiền định của riêng mình, đã đưa Đại sư đến chỗ thấy và nhận ra được Phật tánh trong thể tánh tinh vẹn nhất, chân thực nhất như Trung Đạo. Trí Khải có được một trí tuệ đầy sáng tạo, tinh tuyền và thấm nhuần. Đại Sưtác giả của nhiều tác phẩm, nhưng tác phẩm quan trọng nhất được gọi là ‘Tam Đại Bộ của tông Thiên Thai’. Đại Sư đã chú giải kinh Pháp Hoa, kinh Đại Bát Nhã Ba La Mậtkinh Đại Niết Bàn. Tuy nhiên, với Trí Khải, kinh Pháp Hoa được nhìn như một toát yếu của giáo pháp Thế Tôn. Dựa vào thánh điển nầy, Đại Sư biên soạn tập ‘Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Huyền Nghĩa’.Về giá trị của tập sách nầy, giáo sư Haiyan Shen viết như sau: ‘...vì tánh chất của Huyền Nghĩa, một chú giảihệ thống bộ kinh Pháp Hoa, giáo pháp tối thượng của Thế Tôn, đã trở nên một tác phẩm thâm diệu nhất, chứa đựng hầu hết hệ thống tư tưởng và minh triết của Trí Khải Đại Sư trong lảnh vực Phật giáo. Chuyên chở những đề mục lớn trong kinh Pháp Hoa liên quan đến chân lý rốt ráo Nhất thừa, Đại Sư có thể hiển dương triết học của riêng Đại Sư về Phật giáo.’(p.xiv)

Với mục đích giải thích tư tưởng của mình, Trí Khải đã chọn chú giải kinh Pháp Hoa bởi vì theo Đại Sư bản kinh nầy hòa hợp yếu tính của tất cả những kinh khác. Lời kinh thâm nhập hài hòa đã được Trí Khải ôm ấp và đưa đường tư tưởng của Đại Sư. Trong sự chú nghĩa và giải thích nội dung kinh Pháp Hoa, Trí Khải đã phô bày một năng khiếu chú giải thánh điển hiếm có, đưa ra nhiều ẩn tàng quan trọng, mầm mống khó nắm bắt như hoa sen và những điều tương tự khác gồm chứa trong bản văn. Đại Sư giải đáp những ý nghĩa thâm sâu của bản kinh, nếu không, thì rất khó mà lảnh hội được và từ đó tái lập tư tưởng Phật học với tri giải đầy uy thế về những thánh thư còn lại. Trí Khải giải thích các bản kinh trong đường lối như tấu lên một cung đàn cùng âm giai hòa hợp với các ý thức hệ Khổng giáoLão giáo. Như vậy, trong nổ lực đưa đường nét Trung Hoa vào Phật giáo, Đại Sư đã hòa đồng Phật giáo, Khổng GiáoLão giáo. Điều nầy thực sự là một nhu cầu của mọi thời và Trí Khải đã hoàn tất trong một phương cách thiện xảo

Tập sách với tựa đề ‘ Pháp Hoa Huyền Nghĩa’(The Profound Meaning of the Lotus Sutra) của giáo sư Haiyan Shen là một thuyết minh uyên bác, tràn đầy tư tưởng và tường tận về giáo thuyết Phật Đà của Trí Khải Đại Sư là giáo thuyết đã xây dựng nền tảng cho thể cách của một tông phái danh tiếng, Thiên Thai tông. Căn cứ vào những khảo sát về các tác phẩm của Trí Khải Đại Sư và những áng văn chú giải trong lảnh vực nầy, đây là một khảo cứu cần mẩn và trong sáng, xứng đáng được tất cả tán dương. Tập sách triển khai minh tuệ luận lý, biệt tài phân tích và tư tưởng thấm nhuần của giáo sư.

Với nội dung chi tiết và khéo sắp xếp, những ghi chú tường tận và thư tịch rộng rãi, tập sách biểu hiệu một khảo cưú đáng kể về Thiên Thai tông. Từ đó có thể chứng minh là một đánh dấu quan trọng và cũng là một cống hiến ý nghĩa cho sự khảo nghiệm về tông phái nầy trong Phật học Trung Hoa. Giáo sư xứng đáng nhận lời chúc mừng về khảo sát thông thái nầy, chắc chắn sẽ trở nên một điểm quan trọng trong Phật giáo Trung quốc. Dù rằng tập sách chỉ nghiên cưú và phân tích một trong nhiều tác phẩm của Trí Khải Đại Sư, sự chọn lựa của tập sách nầy rất ý nghĩa, vì như Giáo sư đã viết, tác phẩm được chọn biểu trưng đầy uy lực. Giáo sư viết: ‘Tác phẩm độc đáo nầy, với trí lực tuôn chảy đã làm được một công trình vĩnh cửu, đưa ra một quan điểm toàn triệt về toàn thể hệ thống Phật giáo. Hầu hết giáo nghĩa và khái niệm Phật học rải rác khắp nơi qua nhiều thánh điển khác nhau đã được Trí Khải hợp lại vào hệ thống chú giải của Đại Sư bằng cách xác định lại để từ đó có thể hình thành một giáo pháp liên kết chặt chẻ toàn thể những lời dạy của Thế Tôn, bao gồm tất cả những học phái Phật giáo có mặt vào thời Trí Khải Đại Sư.’( p.XVI).

Hy vọng rằng tập sách nầy sẽ được sự chú ý của nhiều học giả trên thế giới trong lảnh vực Phật học và Hán học. Chắc chắn sẽ giúp ích trong sự tìm hiểu tư tưởng căn bản của tông Thiên Thai và minh triết toàn vẹn hài hòa của Trí Khải đã cống hiến rất nhiều vào sự thành hình Phật giáo Trung Hoa.

S.R.Bhatt
Cưụ Giáo sư và Khoa trưởng
Phân khoa Triết học, Đại học Delhi
Mp 23, Pitam Pura
Delhi, 110088
India
Ngày 20 tháng 7, 2005
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11636)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11962)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11114)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11347)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12065)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12561)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10767)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17984)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11728)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9949)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10168)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12350)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15342)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11241)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14326)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12096)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15362)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12002)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12406)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11185)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12086)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10616)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12556)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13173)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14841)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12686)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16578)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19666)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13110)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12670)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12265)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11851)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10903)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13524)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11951)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11843)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11636)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12768)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14517)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12614)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15665)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13626)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12895)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9876)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18017)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11166)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9082)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12175)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13052)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10311)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12199)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15314)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16611)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12217)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11482)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14271)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19700)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14151)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24608)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10692)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant