Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ái dục bắt nguồn từ đâu?

03 Tháng Hai 201100:00(Xem: 10168)
Ái dục bắt nguồn từ đâu?

CON ÐƯỜNG CŨ XA XƯA 
(Bát Chánh Ðạo) 
Phạm Kim Khánh 
Trung tâm Narada, Seattle, Hoa Kỳ 1993

Phần 1

Ái dục bắt nguồn từ đâu?

Con người có sáu cửa để ngoại cảnh thâm nhập vào gọi là lục nhập hay lục môn. Sáu cửa này tác động qua lục căn là nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý và có sáu đối tượng là sắc thinh, hương, vị, xúc, pháp, mỗi cửa mỗi đối tượng.

Trong bộ Trường A Hàm (Dĩgha Nikàya) có đoạn: 

"Ái dục bắt nguồn từ đâu và phát sanh ở đâu? Nơi nào có thỏa thíchdục lạc, nơi đó có ái dục bắt nguồn và phát sanh. Sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp có thỏa thíchdục lạc. Vậy ái dục bắt nguồn từ đó và phát sanh ở đó."

Khi mắt (nhãn căn) tiếp xúc với một hình thể, (nhãn trần) tức có sự thấy (nhãn thức). Khi tai (nhĩ căn) tiếp xúc với một âm thanh (nhĩ trần) tức có sự nghe (nhĩ thức) v.v... Thấy những hình sắc đẹp, nghe những âm thanh êm dịu hay những lời khen tặng, ngửi những mùi thơm, nếm những món ngon vật lạ, thọ hưởng những cảm xúc dễ chịu hay có những ý nghĩ tốt đẹp thì ta ưa thích, luyến ái, bám níu v.v... những hình ảnh khác nhau của ái dục. Trái lại, những hình sắc ghê tởm, những âm thanh nghịch nhĩ, những mùi hôi thúi v.v... làm cho ta khó chịu, ghét bỏ, xua đuổi.

Dầu ưa thích hay ghét bỏ, ta vẫn giữ trong lòng. Ưa thích thì ôm vào giữ chặt lại, còn ghét bỏ thì xua đuổi, đẩy ra. Ôm vào hay đẩy ra, nó vẫn ở trong tâm mình và từ trong tâm, biểu hiện ra bằng hành động và lời nói. Chính thân, khẩu, ý tạo nghiệp và đưa đẩy ta lạc lối trong khu rừng mênh mông đầy chông gai và đá nhọn gọi là đời sống của muôn loài vật.

Ta gọi là lục thức, sáu sự hay biết xuyên qua lục căn, nhưng trong thực tế nó chỉ là cái tâm, một cái tâm xuất hiện ở sáu nơi. Theo Vi Diệu Pháp (Abhidhamma), không có sự khác biệt giữa các danh từ citta (tâm), nãma (danh), mana (ý) và vinnãna (thức). Khi phân tách cái được gọi là chúng sanh làm hai phần thì phần tinh thần, tức phần tâm linh, được gọi là danh (nãma). Khi phân cái được gọi chúng sanh làm năm uẩn (pancakkhandha) thì phần ấy được gọi là thức, (vinnãna, thức uẩn). Còn danh từ citta thì luôn luôn được dùng khi đề cập đến những loại tâm khác nhau. Trong những trường hợp lẻ loi, theo nghĩa thông thường của tâm, cả hai danh từ citta và mana thường được dùng.

Như vậy ái dục phát sanh từ trong tâm. Nhìn và quan sát tâm tức là ghi nhận (có trí nhớ) và hiểu biết rõ ràng bản chất của đối tượng khi nó phát sanh ở một trong sáu căn.

Khi lục căn tiếp xúc với lục trần chỉ có sự thấy hình thể, sự nghe âm thanh v..v... mà thôi. Chính ý căn nhận ra, hiểu biết đối tượng và do ảnh hưởng của luồng nghiệp ngủ ngầm (ansaya), vốn mang theo với nó những khuynh hướng tâm tánh của ta từ vô lượng kiếp ta có những hành động và lời nói như thế nào 

Thí dụ như người Phật tử thuần thành, khi thấy một pho tượng Phật thì hồn nhiên chắp tay hay khấu đầu đảnh lễ. Mắt người ấy tiếp xúc với pho tượng. Có sự thấy. Ý nhận ra đó là pho tượng Phật. Tâm tánh ngủ ngầm trong luồng nghiệp (anusaya) thúc dục anh ta đảnh lễ. Trong một trường hợp khác, khi anh nọ thấy một người mà trứơc kia anh vẫn có ác cảm. Lóng ác cảm vẫn còn ngủ ngầm trong luồng nghiệp. Giờ đăy hình sắc kia khiêu gợi khuynh hướng tâm tánh ngủ ngầm, thúc đẩy anh có những hành động và lời nói kém thân thiện.

vô minh, không thấy đúng sự thật, chúng ta đồng hóa lục căn với "Ta", xem mắt, tai, mũi v.v... là "Ta", chúng ta tự đồng hóa với ngũ uẩn, xem sắc, thọ, tưởng, hành, thức là ta rồi chấp thủ, khư khư bám chặt lấy cái "Ta " ấy và những cái gì gọi là "Của Ta". Ta không nhận thức rằng cái gọi là "Ta" ấy chỉ là sự kết hợp của năm uẩn, và mỗi uẩn lại là sự kết hợp của nhiều thành phần luôn luôn biến đổi. Không có gì đơn thuần nguyên vẹn và thường còn y hệt trong hai khoảnh khắc kế tiếp mà có thể gọi là "Ta". Nhưng ta vẫn chấp nhận thân này là "Ta", là "Của Ta", mắt này là của ta và nói "Tôi thấy" , "Tôi nghe", "Tôi đánh mùi" v.v... Ta cũng chấp nhận cảm giác "Thọ uẩn " này là "Ta" hay "Của Ta" và nói "Tôi vui", Tôi buồn" , cái buồn hay cái vui ấy là "Của Tôi" v.v... Do đó, mắt muốn thấy hình sắc đẹp. Tai muốn nghe âm thanh êm dịu, Mũi muốn ngửi mùi thơm tho, lưỡi muốn nếm món ngon vật lạ, thân muốn cảm xúc về nhục dục và tâm muốn có những cảm nghĩ dễ chịu, những tư tưởng làm thỏa mãn giác quan.

Thử lấy một thí dụ: Loại ái dục đầu tiên phát sanh do nhãn quan. Rất khó mà kiểm soát và thu thúc nhãn căn, bởi vì bao nhiêu hình sắc đẹp đẽ của ngoại cảnh luôn luôn sẵn sàng làm cho ta xao xuyến. Ðức Phật dạy rằng trên đời không có chi làm cho tâm một người đàn ông chao động dễ dàng bằng hình dáng của người đàn bà. và không có chi làm cho tâm người phụ nữ rung động dễ dàng bằng hình dáng của người đàn ông. Lịch sử nhân loại đã từng chứng tỏ rằng bao nhiêu cơ đồ đã bị sụp đổ và bao nhiêu công nghiệp đã suy tàn chỉ vì sắc đẹp. Cũng vì lẽ ấy mà Ðức Phật hằng khuyên dạy hàng tín đồ nên luôn luôn cẩn mật thận trọng trong việc kiểm soát nhãn quan, như người lính gác cửa thành, từng phút, từng giây canh chừng quân địch. Một khoảnh khắc lơ đễnh có thể gây hậu quả vô cùng tai hại.

Mắt bị rung độnghình sắc, tai bị cảm xúc vì âm thanh, mũi bị kích thích vì hương, lưỡi vì vị. Thân của ta cũng là một nhịp cầu để cho ngoại trần thâm nhập và làm say mê sa đọa. Tâm hay ý, cũng bị ảnh hưởng xấu xa của những tư tưởng tham ái.

Vào thời Ðức Phật có những người phạm tội ác như cướp của giết người hay phá khuấy dân cư, bị dẫn đến vua xứ Kosala. Vua truyền lệnh dùng dây thừng, dây gai, xích trói các tội nhân ấy. Lúc bấy giờ có ba mươi vị sư từ thôn quê đến hầu Phật, vào đảnh lễ Ngài xong xin kiếu về tịnh thất.

Qua này hôm sau các vị sư ấy vào thành Savatthi (Xá Vệ) trì bình, đi ngang qua khám đường và thấy các tù nhân. Lúc trở về chùa, vào buổi chiều các vị đến hầu Phật, và bạch hỏi Ngài, "Bạch Hóa Ðức Thế Tôn, hôm nay trong khi đi trì bình chúng con đi ngang qua khám đường, thấy các tù nhân bị trói bằng dây thừng, dây gai và xích lại. Trông hình như họ đang chịu đau khổ vô cùng. Họ không thể phá vỡ gông cùm để thoát thân. Bạch Hóa Ðức Thế tôn, có chăng những trói buộc chặt chẽ hơn?"

Ðức Phật giải thích: "Này chư Tỳ Khưu, các dây trói buộc ấy thật không chặt chẽ đâu, nếu so sánh với những trói buộc của đam mê xấu xa đê tiện, trói buộc của ái dục, trói buộc của lòng luyến ái, bám niú vào tài sản, sự nghiệp, con cái, vợ chồng. Ðó là trói buộc cả trăm lần, hơn nữa, cả ngàn lần chặt chẽ và vững chắc hơn các loại dây mà các con thấy. Tuy nhiên, dầu các trói buộc ấy có chặt chẽ đến đâu, bậc thiện tri thức vẫn phá vỡ được."

Và Ngài dạy: "Dây làm bằng sắt, gỗ hay gai, ràng buộc không bền chặt. Bậc thiện tri thức dạy như thế. Dây luyến ái bám niú vào kim cương, đồ trang trí vợ, con, là trói buộc bền chặt hơn nhiều.

"Trói buộc ấy thật bền chặt, bậc thiện tri thức dạy như vậy. Nó kéo trì xuống, mềm mỏng dịu dàng, nhưng rất khó tháo gỡ. Chính dây ấy, nguời thiện tri thức cũng cắt lìa và từ bỏ thế gian, không luyến ái và từ khước mọi dục lạc." (Kinh Pháp Cú, câu 345 và 346)

Trong quyển Paticca Samupàda, Pháp Tùy Thuộc Phát Sanh, Ðại Ðức Piyadassi viết:

"Con người luôn luôn bị thích thúdục lạc thu hút. Trong khi mưu tìm thích thúdục lạc con người không ngừng chạy theo và cố bám lấy những đối tượng tương ứng của lục căn (tức là lục trần). Nhưng ít khi con người nhận thức rằng không có số lượng sắc, thinh, hương, vị, xúc. pháp nào có thể hoàn toàn thỏa mãn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, hay ý. Trong khi mãnh liệt khát khao được có quyền sở hữu, hay được thỏa mãn tham vọng con người càng tự ràng buộc mình vào bánh xe luân hồi, càng bị dày vò xô xát và khổ sở quằn quại, vướng mắc trong những cây căm của vòng bánh xe."

 
 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33492)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6628)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11411)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30480)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30498)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 8048)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12297)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12321)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11688)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12951)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34939)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9912)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52348)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10823)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10592)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10785)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10539)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13147)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16365)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21944)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9691)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7192)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10457)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12877)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12860)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16316)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16606)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13939)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16667)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12214)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13929)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14377)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9275)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11811)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11334)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16429)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14426)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16267)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12755)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12160)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11862)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15751)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11590)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14097)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 12083)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12729)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 15059)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 12020)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13196)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14628)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20819)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13311)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 11028)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20788)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14450)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20500)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17741)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 14101)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31940)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12087)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant