Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tai hại của ái dục ảo kiến

03 Tháng Hai 201100:00(Xem: 9414)
Tai hại của ái dục ảo kiến

CON ÐƯỜNG CŨ XA XƯA 
(Bát Chánh Ðạo) 
Phạm Kim Khánh 
Trung tâm Narada, Seattle, Hoa Kỳ 1993

Phần 2

Tai hại của ái dục

Chính yếu tố "vị kỷ" trong ái dục, tanha, gây bao nhiêu tai hại cho con người. Ái dục không bao giờ được hoàn toàn thỏa mãn. Khi một điều mong muốn được thành tựu thì lại có ước vọng mới. Con người luôn luôn chạy theo những thích thú tạm bợ mới, cố rượt theo để bám lấy những ảo ảnh, để chụp cho được cái mà thật sự chỉ là những hình bóng ảo huyền và như thế, con người luôn luôn châm nhiên liệu, dưỡng nuôi và bảo trì ngọn lửa của kiếp sinh tồn. Chính lòng tham muốn ích kỷ, tâm luyến ái vô độ lượng, vô trật tự và sự bám níu đam mê vào những sự vật trên thế gian đã lôi cuốn và đẩy đưa con người trôi giạt đó đây trong đại dương của đời sống.

Ðó là tác động của ái dục ở trong con người dưỡng nuôi nó. Còn tác động của nó ở bên ngoài người ôm ấp nó, ở người khác thì sao? Ðức Phật dạy:

"...Quả thật vậy, này chư Tỳ Khưu, do ái dục vua này gây chiến với vua kia, hoàng tử với hoàng tử, tu sĩ với tu sĩ, dân với dân, mẹ gây gỗ với con, con gây mẹ, cha cãi vã với con, con cãi cha, anh chị với em, em với anh chị, bạn bè với bạn bè."
Trong bài "The Significane Of The Four Noble Truths", đạo hữu Gunaratne viết: 

"Ái dục là một thúc đẩy hùng mạnh, một thúc đẩy nguy hiểm, tai hại. Ái dụcnguyên nhân hầu hết những tệ hại trên đời. Hầu hết những xáo trộn chính trị trong nhiều quốc gia, những vấn đề xã hội và kinh tế rất phiền phức chỉ có thể giải thích được bằng ảnh hưởng nguy hại của tanha. Ái dục vị kỷ là động cơ chính yếu đưa đến hầu hết những cuộc tranh chấpthúc đẩy mọi cố gắng của con ngừơi mê muội.

"... Ðôi khi trong ái dục, sự biểu hiện của lòng vị kỷ có phần lộ liễu, hiển nhiên. Lắm khi rất tế nhị.

"... Tình thương không mấy khi không đượm nhuần tính chất vị kỷ. Ðó là một thứ tình thương thiết tha mong muốn được nhận ra và đòi hỏi được đáp lại. Tóm tắt, đó là tự thương mình, là tình thương của mình đối với mình. Trong phần lớn các trường hợp , người này thương người kia là để tự thương mình nhiều hơn, là bởi vì mình thiết tha mong muốn tự cho mình cái vui được thương người và cái vui được người thương trở lại. Như vậy, tiềm tàng dính liền theo tình thương người có một ẩn ý tự thỏa mãntình thương kẻ khác chỉ là tình thương mình trá hình."

"Ái dục sanh sầu muộn. Ái dục sanh lo sợ. Người đã trọn vẹn dập tắt ái dục không còn sầu muộn, càng ít lo sợ." (Kinh Pháp Cú, câu 216)
Ðể khuyên dạy một vị Tỳ Khưu vô lễ, mặc dầu thông suốt Giáo Pháp nhưng lòng còn chứa đầy ái dục, và kiêu mạn khinh rẻ các vị khác Ðức Phật thốt ra Phật ngôn:
"Trên thế gian này sầu muộn của người bị khát vọng khắn khít và đê hèn tràn ngập sẽ sinh sôi nẩy nở như cỏ birana được tưới nước đầy đủ. Sầu muộn sẽ tách rời người đã khắc phục ái dục bất trị và đê hèn ấy như giọt nước rời lá sen. Ðiều này, Như Lai dạy các con: May mắn thay cho tất cả các con, những người tụ họp tại đây! Hãy đào xới ái dục tận gốc rễ như người ta đào lấy rễ ngọt của cỏ birana. Chớ để Ma Vương mãi mãi đè bẹp các con như trận lụt làm rạp đám lát." ( Kinh Pháp Cú, câu 335-337)
Một lần khác, trong lúc đi dài theo đường Ðức Phật trông thấy một con heo nái. Ngài mỉm cười. Ðức Ananda nhìn thấy một vừng hào quang phát tủa ra từ miệng Ðức Phật liền bạch hỏi, "Bạch hóa Ðức Thế Tôn, vì lý do nào Ngài mỉm cười?" (1), Ðức Phật trả lời: " Này Ananda, nhìn con heo nái kia, trong thời kỳ Ðức Phật Kakusandha heo nái kia là một con gà mái, thường sống quanh quẩn trong chùa. 

"Hàng ngày gà tìm thức ăn bên ngoài chánh điện trong khi một nhóm Tỳ Khưu tu thiền đọc lên những bài kinh về thiền minh sát. Chỉ nhờ nghe được âm thanh mà không hiểu ý nghĩa lời kinh nên sau khi chết, gà tái sanh vào hoàng cung làm công chúa có tên là Ubbari.

"Ngày nọ Công Chúa Ubbari nhìn thấy một đống giòi. Ngay lúc ấy bà liền gom tâm, quán niệm về đống giòi và đắc Sơ Thiền. Trong phần còn lại của kiếp sống ấy bà sống trong Sơ Thiền và, do đó sau khi qua đời, tái sanh vào cảnh Trời. Lúc tuổi thọ ở cảnh Trời chấm dứt, nghiệp lực tốt đã hết. Vì trong một tiền kiếp xa xôi bà mê say đắm chìm trong ái dục, do hậu quả của nhiều kiếp xấu đã gieo nay trổ sanh, bà tái sanh trở lại làm heo nái. Khi nghe Ðức Phật thuật lại lý lịch con heo nái như vậy chư Tăng lấy làm xúc động, nhận thức rằng cho đến khi thành đạt Ðạo quả Tu Ðà Hườn cuộc thênh thang trong vòng luân hồi quả là bất định. Nhân cơ hội Ðức Phật truyền dạy:

"Như cái cây mà rễ còn vững chắc và không bị động đến mặc dầu bị đốn ngã, vẫn còn đâm chồi nở tược, cùng thế ấy, bao giờ lòng ái dục tiềm ẩn chưa bị tận diệt, sầu muộn ấy còn phát sanh trở đi trở lại triền miên." ( Kinh Pháp Cú, câu 338)
Ngài giảng về hậu quả tai hại của ái dục như sau:
"Dòng ái dục tràn ngập khắp nơi. Loài dây leo ái dục đâm chồi và bám vững (đeo níu theo lục trần). Ðã thấy loài dây leo đâm chồi, hãy dùng trí tuệ bứng tận gốc rễ."

" Bên trong chúng sanh, hỷ lạc phát khởicuồn cuộn chảy trôi theo ngũ trần và những chúng sanh ấy đam mê say đắm trong ái dục. Nghiêng ngã theo dục lạc, họ đi tìm thỏa thích. quả thật vậy, người như thế đi đến sanh rồi đến hoại."

"Kẻ bị phủ vây trong ái dục kinh hoàng như thỏ nằm trong rọ. Bị thằng thúc và những trói buộc tham ái, sân hận, si mê, ngã mạntà kiến xiết chặt, kẻ ấy còn đau khổ triền miên lâu dài." (Kinh Pháp Cú, câu 340, 342).

ảo kiến

Từ xa xôi trong quá khứ ta bị màn vô minh che lấpđám mâysi mê bao phủ làm cho tâm không thấy được Chân Lý của vạn pháp. Thấy bóng ta tưởng hình, thấy ảo tưởng thực, thấy những giọt nước kế tiếp trôi chảy gọi là con sông, thấy những hột cát chồng chất trải dài xem đó là bãi biển, một thực thể đơn thuần nguyên vẹn, thấy những tế bào, những nguyên tử, những điện tử giả hợp cho đó là con người, người nam hay người nữ, anh, chị hay tôi, rồi chấp thủ vào cái "Tôi" ấy.

Khi người Phật tử quán trạch bản thân mình một cách sâu sắc và rốt ráo thì nhận thức rằng con người là sự cấu hợp của hai thành phần, vật chấttâm linh, sắc và danh. Phần vật chất, thân hay sắc, không phải là một thực thể đơn thuần, nguyên vẹn, không biến đổi mà là một tiến trình luôn luôn tiếp diễn, luôn luôn trở thành một cái gì khác. Phần tâm linh bao gồm thọ, tửơng , hành, thức, chuyển biến càng mau lẹ hơn.

Bốn loại hiện tượng tâm linh -- thọ, tưởng, hành, thức -- hợp với một hiện tượng vật lý, sắc, là sự kết hợp vô cùng phức tạp của năm thành phần cấu tạo chúng sanh. Mỗi cá nhân đều do năm uẩn cấu thành. Trong khi những thành phần của năm uẩn ấy luôn luôn biến đổi thì có cách nào sự tổng hợp của năm uẩn, tức con người, lại không biến đổi từng khoảnh khắc. Trong hai khoảnh khắc kế tiếp không thể có một người nguyên vẹn không đổi thay bởi vì trong người ấy có thành phần vật chất lẫn thành phần tâm linh đều không ngừng biến đổi. Khi tôi viết trên gĩay hai chữ "tôi viết" thì người viết chữ "viết" đã không còn là người viết chữ "tôi", vì trong thời gian giữa lúc tôi viết chữ đầu và chữ sau bao nhiêu thay đổi, cả vật chất lẫn tinh thần, đã xảy diễn bên tôi. Ðức Phật dạy, "Na ca so, na ca anno", không tuyệt đối là một người, cũng không hẳn là hai người hoàn toàn khác biệt vì cả hai đều nằm trong một tiến trình sống, một dòng sinh tồn. Chỉ có một luồng sống, một diễn tiến của đời sống hay một sự liên tục.

Tuy nhiên, sự liên tục đổi thay này đã xảy ra nhanh chóng đến độ ta không thể phân biệt một cách hiển nhiên. Chính hai yếu tố liên tục và nhanh chóng đã làm cho ta lầm tưởng có một thực thể đơn thuần không biến đổi.

Một cây nhang cháy trong đêm tối chỉ là một đốm sáng. Khi cây nhang được quay nhanh theo một vòng tròn thì ta thấy một vòng ánh sáng. Trong thực tế không có vòng tròn ánh sáng mà chỉ có một điểm sáng di chuyển liên tục và nhanh chóng theo vòng tròn.

Xem chớp bóng, ta thấy cảnh vật di động trên màn ảnh, nhưng thực ra chỉ có những bức ảnh riêng biệt liên tục tiếp diễn theo một tốc độ nào và cho ta cảm giác đang nhìn một loại hoạt cảnh liên tục.

Cùng thế ấy, vì sự biến đổi liên tục của những thành phần ngũ uẩn nhanh chóng nên ta có cảm tưởng như có những thực thể đơn thuần, nguyên vẹn, không biến đổi, gọi là người, anh, tôi, thú v.v...

Thực ra toàn thể tiến trình của những hiện tượng tâm vật lý ấy luôn luôn trở thành rồi tan rã, sanh rồi diệt. Không thể có cái gì bền vững thường còn mà ta có thể gọi là "Ta" hay "Của Ta", hay một linh hồn trừơng cửu, một bản ngã vĩnh tồn.

Ðức Phật dạy:

"Như có người kia không phải mù lòa, đi dài theo sông Ganges (Hằng), trông thấy bong bóng nước trên mặt sông, nhìn lại kỹ và quan sát tận tường. Sau khi quan sát tận tường người ấy thấy rằng bên trong bong bóng thật trống rỗng, không có thực chất, không có thể chất vững bền. Cũng dường thế ấy vị Tỳ Khưu trông thấy sắc, thọ, tưởng, hành, thức trong quá khứ, trong hiện tại hay ở vị lai, bên trong hay ở ngoài, thô kệch hay vi tế, cao thượng hay thấp hèn, xa hay gần, và vị Tỳ khưu nhìn lại kỹ càng và quan sát tường tận ngũ uẩn. Sau khi quan sát ngũ uẩn một cách tận từơng vị tỳ khưu thấy nó rỗng không, không thực, không có thực chất vững bền...

"Sắc giống như một khối bọt, thọ như bong bóng nước, tửơng như một ảo cảnh, hành mỏng manh như tàu lá chuối, thức như trò ảo thuật." (Samyutta Nikaya, Tạp A Hàm)

Nhưng vì mãi bị màn vô minh che lấp, người đời xem đó là "Ta", là tự ngã của ta.

Một câu chuyện thuật rằng có người kia nhà nghèo, sống với đứa con nhỏ trong một túp lều tranh ở ngoại ô thành phố. Hôm nọ anh đi làm, để con ở lại nhà. Một tên gian manh, thừa lúc vắng người lớn vào nhà định vơ vét tài vật. Nhưng khi lục soát cùng khắp mà không thấy gì đáng giá thì anh ta tức giận, nổi lửa đốt nhà và dắt luôn đứa bé theo.

Khi đi làm về người cha nghèo thấy nhà cửa chỉ còn là một đống tro, còn con thì đâu mất. Tin chắc rằng con mình đã bị chết thiêu trong đám hỏa hoạn, anh moi đống tro tàn để tìm những gì còn lại của đứa con yêu qúy và bỏ vào bị. Từ đó anh luôn luôn mang theo mình cái bị và trum trủm giữ gìn như một bảo vật, lúc ngủ cũng để bên mình và hết lòng thiết tha trìu mến.

Ngày tháng trôi qua. Ðứa bé lớn lên, tìm cách trốn thoát tên gian manh, tìm về với cha. Người cha đang ở trong nhà, thấy có chàng thanh niên đến và tự giới thiệu là con anh thì lấy làm ngạc nhiên, quả quyết phủ nhận: " Em nào phải là con tôi, tôi chỉ có một con". Rồi anh chỉ vào bị khẳng định, đây là con tôi. Anh nhất quyết như vậy. Không làm sao giải thích cho anh biết rằng đó chỉ là tưởng tượng , kỳ thực tro kia không phải là con anh.

Nghe qua câu chuyện ta có thể nghĩ rằng anh kia quá dại dột, quả thậtmê lầm. Ðúng vậy. Nhưng bất hạnh thay! Hầu hết chúng ta là như vậy -- vì thế chúng ta còn quanh quẩn ở đây. 

Chúng ta mãi mãi ở trong ảo mộng mà cho đó là thực tế. Chúng ta sống với những quy ước và những khái niệm và quả quyết rắng đây là "Ta", kia là cha, là mẹ, là anh, chị cô, bác, họ hàng thân thuộc "Của Ta", nhà cửa "Của Ta", xe cộ "Của Ta" v.v... trong khi 

"...chính thân này còn không phải là của ta thì con cái nào là của ta, sự nghiệp nào là của ta?" ( Kinh Pháp cú, câu 62)
Chắc mỗi người trong chúng ta còn nhớ rằng lúc thiếu thời, vào một buổi chiều nào đó, chúng ta nhìn lên trời thấy một cái móng (cầu vồng) màu sắc rực rỡ, đóng trên một vừng mây. Lúc ấy chúng ta rất cảm kích, tửơng chừng như mình có thể đến gần và sờ nắm được cái móng, vì nó rành rành còn hơn rặng cây mờ mờ trong đám khoí ở phiá sau . Trên thực tế, nó không có gì là thực chất mà chỉ là những làn ánh sáng chiếu suyên qua hằng triệu, hằng tỷ tỷ giọt nước ly ty, vởn vơ trong không gian. Từ thuở ấy đến nay còn biết bao nhiêu lần khác, trong bao nhiêu trường hợp khác nhau ta lầm tưởng giả là thật. Hằng ngày, vào buổi sáng ta thấy mặt trời lú lên từ chân trời ở hướng Ðông, và buổi chiều sụp xuống ở hướng Tây. Một cách quy ước ta nói rằng mặt trời mọc buổi sáng và lặn buổi chiều. Thực ra, và ta hiểu rõ như vậy, không có mặt trời mọc và mặt trời lặn mà chỉ có quả địa cầu, vừa xoay vần theo một trục vừa vận chuyển quanh mặt trời.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33493)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6630)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11415)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30482)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30500)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 8048)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12301)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12323)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11689)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12955)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34944)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9912)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52351)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10824)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10594)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10786)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10541)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13147)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16367)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21952)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9693)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7194)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10460)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12880)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12862)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16319)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16607)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13939)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16668)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12215)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13931)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14380)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9277)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11814)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11337)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16435)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14430)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16267)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12761)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12161)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11862)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15757)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11592)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14099)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 12085)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12732)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 15061)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 12025)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13197)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14628)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20820)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13315)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 11029)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20789)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14450)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20500)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17741)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 14103)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31941)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12087)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant