Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chánh ngữ

03 Tháng Hai 201100:00(Xem: 8758)
Chánh ngữ

CON ÐƯỜNG CŨ XA XƯA 
(Bát Chánh Ðạo) 
Phạm Kim Khánh 
Trung tâm Narada, Seattle, Hoa Kỳ 1993

Phần 4

Chánh ngữ

 

Chánh ngữ là lời nói có chân chánh, tức không tạo nghiệp bất thiện bằng lời nói, trái lại trau giồi những thiện khẩu nghiệp

Lời nói là một khả năng của con ngườigiá trị vô cùng trọng đại. Bằng lời nói, ta biểu lộ những tư tưởng thầm kín để chia xẻ với người khác. Người có Chánh KiếnChánh Tư Duy tức nhiên cũng có Chánh Ngữ. Những người khác, dầu chưa đạt đến mức cao thượng ấy, vẫn có thể tu tập, thận trọng chú tâm vào những gì mình sắp nói. Nếu con người có thể kiểm soát được cái lưỡi không xương của mình nhân loại ắt tránh được bao nhiêu phiền phứcđời sống trên thế gian này sẽ tốt đẹp hơn bao nhiêu. Lời nói trong sạch sẽ không đượm nhuần những tâm sở bất thiện như tham lam, sân hận, ganh tỵ, ngã mạn, ích kỷ v.v... 

Bốn loại khẩu nghiệp bất thiện là: nói dối, nói đâm thọc, nói thô lỗ cộc cằnnói nhảm nhí.

a. Không nói dối mà luôn luôn nói lời chân thậtđức hạnh đầu tiên của Chánh Ngữ. Người nghiêm trì giới này cố tránhkiêng cữ nói lời giả dối, tức chuyện có nói không, chuyện không nói có. Người ấy nói lời chân thật, tận tâm sống chân thật, chắc chắn, đáng được tín cẩn. Tâm sở bất thiện nằm phía sau lời nói giả dối, hay ý định làm cho người khác hiểu sai sự thật, có thể khác nhau như khi nói dối để được lợi về tài sản vật chất, địa vị, quyền thế, danh vọng v.v... cho mình hay cho người thân mình thì đó là tâm tham. Nói dối cố tình làm hại người khác là tâm sân v.v... 

Nói lời giả dối tác hại cho người mà cũng làm hại chính mình. Xã hội chỉ có thể tồn tại êm thấm trong sự tín cẩn lẫn nhau khi mà người này có lý do để tín nhiệm người khác. Tật nói dối còn ảnh hưởng đến tâm tánh tự nhiên của mình. Khi đã nói dối một lần ta bị bắt buộc phải nói dối nữa để che đậy cái dối trước và như vậy, gài chặt người nói dối vào một loại cạm bẩy rất chằn chịt, không lối thoát. Lắm lúc, đến độ nào, chính người nói dối cũng không còn biết đâu là sự thật

Giả dối là một trở ngại quan trọng trên đường giác ngộ. Giác ngộthấu triệt sự thật, thấy rõ thực tướng của sự vật, còn nói dối là nói sai sự thật, cố tình làm cho người khác hiểu sai sự thật. Chứng ngộ Chân Lýtrọn vẹn tự hòa đồng với sự thật, với cái gì thật sự là như vậy. Người giả dối nghĩ một đàng nói ra một nẽo, lấy giả làm thật. Con đường giả dối hẳn là ngược chiều với con đường giác ngộ. Như vậy, cố tránh, cố kiêng cữ lời nói giả dối là vươn mình cố vượt qua khỏi phạm vi luân lý của đời sống xã hội. Vấn đề ở đây là trọn vẹn hòa đồng với Chân Lý

Ðến mức cùng tột, chân thật là một Parami (Ba La Mật), tức là một trong mười pháp có khả năng đưa người thực hành thuần tục từ bờ mê đến bến giác (Sacca Paramita, Ba La Mật Chân Thật). Một vị Bồ Tát luôn luôn chân thật, trong sạchchánh trực. Phương châm của Ngài là, "nói sao làm vậy, làm sao nói vậy", không hề sai chạy, không bao giờ có sự chênh lệch giữa hành động và lời nói. Ðời công các Ngài như thế nào đời tư như thế ấy. Dầu có phải hy sinh mạng sống đi nữa Bồ Tát vẫn không hề nói lời giả dối. Sở dĩ chư vị Bồ Tát rất chú tâm đến hạnh chân thật như vậy là vì ảnh hưởng của sự giả dối rất sâu đậm. 

b. Không nói đâm thọc là pháp tu học thứ nhì. Danh từ "pisunavacca" được Ðức Thế Tôn dùng ở đây có nghĩa là lời nói nhằm bẻ gảy tình bằng hữu. Thành ngữ mà người thế gian thường dùng là đâm bị thóc chọc bị gạo. Ði đầu này nói xấu đầu kia, rồi trở lại đầu kia đặt chuyện dèm pha người này nhằm tạo sự thù hằn, hờn giận hay chia rẽ. Ðức Phật dạy: 

"Người trì giới này cố tránhkiêng cữ, không dùng lời lẽ có tánh cách đâm thọc. Ðiều gì nghe ở đây, người ấy không lặp lại ở nơi khác nhằm tạo chia rẽ, hoặc nghe ở nơi khác người ấy không lặp lại ở đây với ý định làm cho hai đàng hờn giận lẫn nhau. Người ấy đoàn kết những ai chia rẽ và khuyến khích những ai đoàn kết. Không khí thuận hòa là niềm vui của người ấy. Người ấy hoan hỷ thỏa thích và phấn khởi trong sự hòa hợp và, bằng lời nói, cố gắng gieo trồng mầm mống thuận hòa" (Tăng Nhứt A Hàm. Anguttara Nikàya, 176)
Ðộng cơ thúc đẩy, đưa đến lời nói đâm chọc thường là tâm bất mãn, sân hận hay ganh tỵ. Thấy ai thành công hay thấy người có giới đức được tôn trọng thì sanh tâm muốn hạ uy tín hoặc làm giảm suy giá trị. Ðôi khi vì muốn ám hại hay muốn lấy lòng một người, cũng có khi chỉ vì thỏa thích muốn thấy người ta giận dũi cấu xé lẫn nhau. 

Ðứng về phương diện nghiệp báo, quả của lời nói đâm thọc rất là tai hại. Tâm sân, làm nguyên nhân cho lời nói, đã là một căn bất thiện rồi, người có ác ý cố gây chia rẽ thường nghiền ngẩm suy tư, tìm lời lẽ để châm chích cho đúng lúc, đúng tâm lý v.v... Càng ấp ủ dưỡng nuôi trong lòng, nghiệp ác càng nặng. Nếu cố tâm bày điều giả dối để thêm bớt thì lại còn tạo thêm khẩu nghiệp giả dối. Cả hai, lời nói giả dốilời nói đâm thọc, phối hợp lại tạo thành một khẩu nghiệp bất thiện vô cùng tai hại

Người nói đâm thọc tựa hồ như loài muổi, hút máu đầu này rồi đến ve vản đầu kia, hút một ít máu và trong lúc ấy, không quên để lại một phần nọc độc. Miệng nói ngọt ngào như mật nhưng tâm thì đượm nhuần chất độc. 

Lời chân chính không tạo phiền phức cho ai mà chỉ đem lại hòa hợpan tĩnh. Thay vì gieo rắc mầm mống chia rẽ người ấy luôn luôn tạo hòa khí giữa những người bất đồng ý kiến, xây dựng tình bằng hữu giữa những người thù nghịch

Trong xã hội loài người chúng ta không thể sống riêng rẽ một mình mà phải tùy thuộc lẫn nhau. Vậy, trong sự lợi ích kế cận nhất của mỗi người, chúng ta hãy cố gắng tập sống chung với nhau trong bầu không khí thuận hòa, trong tình huynh đệ và trong sự điều hòa.

c. Không nói lời thô lỗ cộc cằn mà chỉ nói thanh tao nhã nhặn. Lời thô tiếng cộc biểu lộ ra ngoài tâm hung tợn bên trong và được thốt ra trong cơn nóng giận. Tánh cách thô bạo của lời nói như thế có thể biểu hiện dưới nhiều hình thức như la rầy, mắng nhiếc, chưởi rủa hay nói xiêng nói xỏ v.v... tất cả đều phát sanh từ tâm bất mãn, sân hận và nhằm gây phiền muộn khổ đau cho người khác. 

Những cơn nóng giận thường bộc phát đột ngột, không có sự nghiền ngẫm suy tính, do đó hậu quả không đến nổi trầm trọng lắm. Tuy nhiên, vì nó có khuynh hướng tái diễn, nếu chúng ta lơ đểnh để lặp đi lặp lại nhiều lần ắt thành thói quen và từ đó, trở thành tâm tánh sân hận và hung bạo thì rõ ràng là một hiểm họa. Lời nói thô bạo, biểu lộ sự nóng giận, lúc nào cũng là một tai hại cho người nghe cũng như cho người nói, trong hiện tại cũng như trong tương lai. 

Vào thời Ðức Phật có vài vị tỳ khưu thường nặng lời lăng mạ một vị khác và vị này trả lời lại. Ðức Phật khuyên: 

"Không nên dùng lời thô lỗ cộc cằn. Người bị nói cộc sẽ trả lời thô. Những lời gây thù trả oán thô tục thật là đau đớn. Lời qua tiếng lại sẽ làm tổn thương như gây thương tích." (Kinh Pháp Cú, câu 133)
Ngài giảng dạy về sự lợi ích của người biết giữ im lặng trước những lời lăng mạ của kẻ khác như sau, "Nếu giữ được im lặng như cái mõ bể, con đã đắc quả Niết Bàn", ý nói người hành đúng như vậy, dầu còn tại thế cũng được xem như đã đắc Niết Bàn

Tự kềm chế, cố tránhkiêng cữ những lời thô bạo trong cơn nóng giận là trau giồi hạnh nhẫn nhục, cũng là một Ba La Mật, Khanti Paramita, Nhẫn Nhục Ba La Mật,. Ðó là chịu đựng những lời khiển trách khắc khe và khoan hồng bỏ qua những sai lầm của người khác, tôn trọng những quan điểm dị đồngcảm thông những thiếu sót của người. Tự kiểm soát thân tâm là cái chìa khóa mở cửa đưa vào hạnh phúc và để cho những cảm xúc vô độ lượng, vô trật tự, đượm nhuần sân hận, điều khiển mình là tự đạt mình vào tình trạng nô lệ tệ hại nhất. 

Túc Sanh Truyện số 269 có thuật chuyện Bồ Tát, tiền thân của Ðức Thế Tôn, là vua xứ Bernares (Ba La Nại), trong một kiếp sống. Ðức Hoàng Thái Hậu, mẹ Ngài, là người hiền lương nhưng đôi khi ăn nói cộc cằn. Hôm nọ Vua cùng đi chơi với Hoàng Thái Hậu và đoàn tùy tùng, dạo chơi trong ngự uyển.Bên đàng có con chim ác là, màu sắc xanh tươi lộng lẩy, nhưng mỗi khi cất tiếng lên thì giọng kêu chác chúa, ai nấy cũng bịt tai, ngoảnh mặt than phiền. Một lúc sau, đến nơi khác có con chim chích chòe, lông đen xấu xí mà tiếng hát lãnh lót thanh tao dịu ngọt, ai cũng thích nghe, ai cũng trông cho nó hát thêm nữa để nghe. Nhân cơ hội Vua mở lời khuyên nhủ mẹ: 

"Kính Thưa Mẫu Hậu thân mến, tiếng kêu của con chim ác là thật chác chúa khó chịu, ai cũng muốn xa lánh. Thật không ai thích nghe lời thô lỗ. Chim chích chòe trái lại, mặc dầu đen đúa xấu xa nhưng đã thu hút mọi người bằng giọng hát thanh nhã dịu hiền. Như vậy, lời nói của ta phải cẩn ngôn, êm dịu, hiền lành, đầy ý nghĩa v.v..."
Do lời khuyên của người con sáng suốt kể từ đó về sau Hoàng Thái Hậu giữ gìn lời ăn tiếng nói và trở nên thanh nhã dịu hiền.

d. Không nói nhảm nhí mà chỉ nói lời hữu ích. Pháp học này được Ðức Phật dạy như sau: 

"Người (thọ trì phẩm hạnh này) cố tránhkiêng cữ nói lời nhảm nhí, vô ích. Người ấy nói đúng lúc, đúng như sự việc xảy ra, nói những lời hữu ích, nói về Giáo PhápGiới Luật. Lời nói của người ấy là một kho tàng, thốt ra đúng lúc, hữu ly, hòa nhã và đầy ý nghĩa." (Tăng Nhứt A Hàm, Anguttara Nikàya, bài số 176)
Lời nói nhảm ắt vô ý nghĩa, nông cạn và không mang lại lợi ích nào. Những lời lẽ như thế ấy chỉ khơi động vọng tâm. Ðức Phật khuyên nên hạn chế những ngôn từ thuộc loại này. Ðối với bậc xuất gia, lời nói phải thật là cẩn ngôn, phải được chọn lọc và chỉ nói những gì thích hợp với Giáo Pháp. Ngài dạy: 
"Này chư Tỳ Khưu, khi các con tụ họp đông đảo thì chỉ có hai việc nên làm: hoặc thảo luận về Giáo Pháp, hoặc im lặng cao thượng." (Trung A Hàm, Majjhima Nikàya, bài số 26)
Thảo luận về Giáo Pháp là đề cập đến bản chất thật sự của vạn hữu, là đề cập đến Con Ðường dẫn đến chứng ngộ Chân Lý cùng tột, Niết Bàn, và do đó, quả thật là hữu ích. Ðàng khác trầm lặng là một hình thức nhàn lạc của kiếp sinh tồn. Lại nữa, khi ẩn rút trong im lặng chúng ta hoàn toàn đơn độc để nhìn vào bên trong chúng ta, vào bản chất thật sự của chúng ta, để tận tường thấy rõ mình như thật sự mình là vậy. Chừng đó ta có thể học được phương cách vượt qua những khuyết điểm và giới hạn của cuộc sống bình thường. Hàng cư sĩ tại gia, vì nhu cầu xã hội, còn phải cần nói năng lịch thiệp trong câu chuyện giao dịch hằng ngày. Mặc dầu vậy, Ðức Phật dạy không nên lơ đểnh để buông trôi quá xa, vì người chú nguyện đi trên con đường giải thoát phải hết sức thận trọng phân biệt điều nào sẽ dẫn đi đâu, và phải luôn luôn chuyên cần canh chừng "anh chàng nói láo" sâu ẩn lẫn trốn bên trong chúng ta một cách rất là kín đáo. 

Không nên nói lời nhảm nhí mà luôn luôn có lời hữu ích. Vào thời Ðức Phật có tên sát nhân khát máu nọ gia nhập vào đảng cướp, gây nhiều tội ác và về sau trở thành đao phủ thủ của triều đình. Nhờ Ðức Sàriputta (Xá Lợi Phất) cảm hóa, tánh tình anh đổi hẳn từ hung tàn bạo ngược trở nên hiền lành lương thiệnsau khi chết tái sanh vào cảnh Trời. Ðức Phật giải thích rằng sở dĩ anh tái sanh tốt đẹp là nhờ lời khuyên hữu hiệu đượm nhuần từ bi của bậc đạo đức cao thượng. Ngài dạy: 

"Chỉ một lời nói hữu ích, làm cho người nghe an tĩnh, còn quý hơn cả ngàn tiếng nói vô ích." (Kinh Pháp Cú, câu 100)
Không phải nói nhiềuchứng tỏ rằng mình học rộng biết nhiều. Cũng không phải nói nhiều mà mình tạo lợi ích cho mình hoặc cho ai khác. Kinh sách Tây Tạng có lời dạy rằng nói nhiều lắm khi đưa đến hậy quả tai hại, như trường hợp con két, vì ham nói mà phải chịu cảnh chim lồng. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33492)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6628)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11411)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30480)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30498)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 8048)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12297)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12321)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11688)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12951)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34939)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9912)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52348)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10823)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10592)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10785)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10539)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13147)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16365)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21944)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9691)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7192)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10457)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12877)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12860)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16317)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16606)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13939)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16667)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12214)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13929)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14377)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9275)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11811)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11334)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16429)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14427)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16267)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12755)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12160)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11862)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15751)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11590)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14097)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 12083)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12729)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 15059)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 12020)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13196)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14628)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20819)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13311)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 11028)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20788)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14450)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20500)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17741)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 14101)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31940)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12087)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant