Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thoát ra khỏi vòng sanh tử

03 Tháng Hai 201100:00(Xem: 9315)
Thoát ra khỏi vòng sanh tử

CON ÐƯỜNG CŨ XA XƯA 
(Bát Chánh Ðạo) 
Phạm Kim Khánh 
Trung tâm Narada, Seattle, Hoa Kỳ 1993

Phần 2

 Thoát ra khỏi vòng sanh tử

Tiến trình nhân và quả diễn tiến vô cùng tận. Cây sanh trái, trái sanh cây, xem hình như không bao giờ chấm dứt. Nhưng nếu ta biết, đập hột đi ắt trái không còn sanh cây và như thế chấm dứt luồng diễn tiến. Quả phát sanh vì nhân. Nếu không có nhân tức không có quả. Nhân diệt tức quả diệt.

Hãy trở lại nhìn vào bánh xe của đời sống, cũng được gọi là pháp Tùy Thuộc Phát Sanh (Paticca samuppada), hay Thập Nhị Duyên Khởi hay Thập Nhị Nhân Duyên.

Từ vô thủy ta bị trói buộc, dính mắc trong vòng lẩn quẩn của Thập Nhị Nhân Duyên. Nếu để nó trôi chảy theo dòng diễn tiến tự nhiên mà không có sự cố gắng mà để khắc phục và vượt thoát ra khỏi, thì dưới sự chi phối của tham ái, sân hậnsi mê cố hữu của con người, nó sẽ lôi cuốn ta mãi triền miên vô cùng tận. Phải đập bể cái hột và chấm dứt vòng luân hồi. Câu hỏi được nêu lên là: Phải thoát ra ở giai đoạn nào ở mười hai vòng khoen? 

Hai vòng khoen đầu, Vô Minh và Hành, nằm trong thời quá khứ. quá khứ đã qua, nghiệp đã được tạo, ta không thể đi ngược dòng thời gian để sửa sai. Vậy, không thể làm gì.

Hai vòng khoen cuối cùng, Sanh và Lão Tử, thuộc về tương lai. Tương lai chưa đến. Ta cũng không thể đi trước thời gian để sắp xếp sự vật.

Tám vòng khoen còn lại nằm trong thời hiện tại. Năm trong tám vòng ấy: Thức, Danh sắc, Lục căn, Xúc, Thọ là quả, trổ sanh trong hiện tại do nghiệp đã tạo ở quá khứ. Nhân đã gieo trong quá khứ ắt quả dĩ nhiên phải trổ, ta không thể sửa đổi. Cũng không thể làm gì.

Còn lại ba là Ái, Thủ, Hữu. Ðây là phản ứng của ta đối với những quả ấy. Phản ứng này rất quan trọng vì sẽ làm nhân tạo quả trong tương lai. Ðó là yếu tố then chốt trên con đường. Nơi đây ta có thể bị lôi cuốn mãi mãi đi vòng quanh mà cũng tại nơi đây ta có thể mở đường vượt thoát ra khỏi vòng luân hồi. Nếu trong khi thọ, ta ái -- ưa thích hay ghét bỏ -- tức có luyến ái, đeo níu, bám chặt (thủ) rồi tiếp nối vòng quanh. Nếu hiểu biết bản chất thật sự của thọ là vô thường, khổ, vô ngã ta sẽ không chấp thủ mà buông bỏ. Tức nhiên không có ái. Không ái tức không thủ, không hữu và đó là đập nát cái hột, chấm dứt luân hồi.

Trong các bài kinh giảng về thọ trong bộ Tạp A Hàm (Vedana-samyutta) Ðức Phật hỏi: " Này chư Tỳ Khưu, một người thế gian không có học Giáo Pháp, kinh nghiệm thọ lạc, kinh nghiệm thọ khổ, và kinh nghiệm thọ vô ký. Một Thánh Ðệ tử thông suốt Giáo Pháp, cũng kinh nghiệm thọ lạc, kinh nghiệm thọ khổ và kinh nghiệm thọ vô ký cùng một thế. Vậy thì có gì khác biệt, có điểm nào dị đồng giữa hai người?

"Khi người thế gian bị đau đớn, nhức nhối thì lo âuphiền muộn, người ấy ta thán, đấm ngực khóc than và thất vọng. Như thế anh ta kinh nghiệm hai loại thọ, thọ khổ ở thân và thọ ưu ở tâm. Cũng như đã bị một mũi tên rồi lại bị một mũi tên thứ nhì, anh đau khổ cả thân lẫn tâm.

"Bị thương đau nhức, người ấy phẫn uất, bất mãn và có khuynh hướng tìm cách khỏa lấp. Trong sự đau khổ người ấy đi tìm lạc thú ở đời. Tại sao người ấy hành động như vậy? Này chư Tỳ Khưu, người thế gian không có học Giáo Pháp, không biết phải làm thế nào để thoát ra khỏi sự đau khổ của mình, ngoại trừ tìm cách hưởng thụ dục lạc để khỏa lấp. Bên trong con người thích thú hưởng thọ dục lạc thì khuynh hướng khát khao nhục dục ngũ trần ngày càng sâu đậm. Người ấy không biết đúng sự thật bản chất sanh diệt của thọ, không biết hậu quả tai hại của lòng ham muốn thỏa mãn dục vọng mà cũng không biết làm cách nào để thoát ra. Bên trong con người kém hiểu biết như thế khuynh hướng si mê đối với thọ vô ký càng sâu đậm. Khi thọ lạc, thọ khổ hay thọ vô ký người như thế ấy tự trói buộc, xiết chặt mình vào đời sống. Này chư Tỳ Khưu, người như thế ấỵ bi dính mắc và mãi mãi lăn trôi trong vòng sanh, lão, bệnh, tử, lo âu, sầu muộn, ta thán, khổ đau và tuyệt vọng.

"Trong trừơng hợp của bậc Thánh Ðệ Tử thông suốt Giáo Pháp, này chư Tỳ Khưu, khi bị đau đơn nhức nhối vị ấy không lo âu, phiền muộnta thán, không đấm ngực khóc than và thất vọng. Người ấy chỉ kinh nghiệm một loại thọ, đau đớn về thể xác, nhưng tâm vẫn bình thản. Cũng giống như người bị mũi tên, không bị mũi tên thứ nhì. Cũng dường thế ấy, bậc Thánh Ðệ Tử thông suốt Giáo Pháp sẽ không lo âu sầu muộnta thán, sẽ không đấm ngực khóc than và thất vọng.

"Bị thương đau nhức người ấy không phẫn uất bất mãn, do đó không có khuynh hướng tìm cách kháng cự. Trong sự đau khổ người ấy không tìm thọ hưởng lạc thú trần gian để khỏa lấp.

"Tại sao? --Vì đã thông suốt Giáo Pháp bậc Thánh Ðệ Tử hiểu biết làm thế nào để thoát khổ, ngoài phương cách thỏa mãn dục vọng. Bên trong người không tìm thỏa mãn dục vọng không còn khuynh hướng đi tìm thích thú trong dục lac. Người ấy thấu đạt chân chánh bản chất sanh diệt của thọ, mối hiểm họa của lòng ham muốn dục lạc và cũng hiểu biết con đường thoát ra khỏi những thọ cảm ấy. Bên trong người hiểu biết như thế ấy không còn khuynh hướng si mê đối với thọ vô ký. Khi thọ lạc, thọ khổ hay thọ vô ký người ấy không bị trói buộc. Người như thế ấy, này chư Tỳ Khưu, được gọi là bậc Thánh Ðệ Tử thông suốt Giáo Pháp, là người không tự trói buộc mình vào và không lăn trôi theo vòng sanh, lão, bệnh, tử, lo âu, sầu muộn, ta thán, khổ đau và thất vọng.

"Ðó, này chư Tỳ Khưu, là sự khác biệt, là điểm dị dồng giữa người thế gian không biết Giáo Pháp và vị Thánh Ðệ Tử thông suốt Giáo Pháp ."

Một lần khác Ðức Phật dạy: 

"Này chư Tỳ Khưu, trên không trung có nhiều luồng gió thổi: gió từ hướng Ðông, từ hướng Tây, gió từ hướng Bắc, hướng Nam, gió co mang theo buị bặm và gió không bụi, gió nóng, gió lạnh, gió giông bão, có gió lượng nhỏ thổi, có gió lượng lớn thổi. Cũng vậy, này chư Tỳ Khưu, trong thân này có nhiều loại thọ sai biệt khởi lên: Thọ lạc phát sanh, thọ khổ phát sanh và thọ vô ký phát sanh.

"Nhưng vị Tỳ Khưu nhiệt thành tin tấn và không dễ duôi lơ đễnh buông lung, luôn luôn giác tỉnh chú niệm và hiểu biết rõ ràng bản chất của mỗi loại thọ. Thấu đạt từng thọ cảm, vị ấy sẽ tận diệt ô nhiễm trong chính kiếp sống này. Ðã thuần thục hiểu biếtvững vàng trong đường lối của Giáo Pháp, khi kiếp sống này chấm dứt, cơ thể rã tan, vị Tỳ Khưu ấy vượt lên khỏi mọi hình thức khái niệm của thế gian."

Một cách chính xác, chính thọ (vedanã) cảm giác một đối tượng, khi đối tượng ấy tiếp xúc với Lục căn. Thọ cảm nhận quả lành hay quả dữ của những hành động trong hiện tại hay trong quá khứ. Chính tâm sở tác ý (cetanã), tức ý nằm bên trong hành động, là "người gieo nghiệp" và tâm sở thọ là "người gặt hái quả". Ngoài hai tâm sở tác ý và thọ không có một linh hồn hay một bản ngã, một cái "Ta" nào tạo nghiệp hay thọ quả.

Khi thấy một hình sắc, nghe một âm thanh, ngửi một mùi, nếm một vị, sờ chạm một vật hay nảy sanh một ý nghĩ con người có một cảm giác, một loại thọ. Nhưng ta không thể nói rằng tất cả mọi chúng sanh đều cảm một loại thọ giống nhau trứơc một đối tượng giống nhau. Một đối tượng có thể tạo thọ lạc cho người này mà gây thọ khổ cho người kia và thọ vô ký cho một người khác nữa, vì khuynh hướng tâm tánh trong luồng nghiệp (anusaya) của mỗi người mỗi khác. Một ly rượu mạnh có thể là nguồn khoái lạc cho một người và là độc dược cho người khác. Lại nữa, cùng một người cùng một đối tượng, ở hai thời kỳ khác nhau hay trong những hoàn cảnh khác nhau thọ cũng có thể khác nhau. "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?".

Chúng ta chấp những yếu tố của ngũ uẩn luôn luôn biến đổi là "Ta". Ðó là nguồn gốc của tất cả những phiền phúc, những lo âu, những quấy nhiễu, những điều bất hạnh, những hoàn cảnh khổ đau.

Tại sao?

* Khi cái được gọi là "Ta" bám níu, duyên theo người hay vật mà nó ưa thích, tất có thân yêu, luyến ái hay trìu mến.

Trong những trừơng hợp khác nhau Ðức Phật dạy rằng:

"Thân yêu... Trìu mến... Luyến ái... Tham dục... Ái dục... sanh sầu muộn, sanh lo sợ. Người đã trọn vẹn dập tắt thân yêu... trìu mến v.v... không còn sầu muộn, càng ít lo sợ." (Kinh Pháp Cú, câu 212-216)

" ....Phiền não không bao giờ đến với người không luyến ái danh sắc và không còn dục vọng." (câu 221)

* Khi cái "Ta" bất mãn với người hay vật không ưa thích tất cả sự ghét bỏ, phiền giận hay hận thù.
Kinh Pháp cú dạy rằng:

Lòng sân hận không thể nguôi ngoai trong tâm người ôm ấp những ý nghĩ, "Nó lăng mạ tôi", "Nó đánh đập tôi", "nó chiến thắng tôi", "nó cướp giật của tôi". (Pháp Cú, câu 3)

"Trên thế gian này sân hận không bao giờ dập tắt sân hận. Duy có tình thương mới diệt tâm sân. Ðó là định luật nghìn thu." (Pháp Cú, câu 5)

* Khi cái "Ta" thất bại, tất có sự đau khổ, âu sầu, phiền muộn, hối hậntuyệt vọng sâu xa, có thể đưa đến cảnh tự quyên sinh hay gây tổn hại cho người khác.

* Khi cái "Ta" lâm nạn, tất cả lo âu sợ sệt. Tại sao ta lo sợ? Phân tích đến mức cùng tột chỉ có một câu trả lời: Chúng ta lo sợ vì mang nặng trong lòng những tư tưởng " Ta" và "Của Ta". Chúng ta trông mong chờ đợi, bồn chồn mong mỏi cho ta và những ai hay những gì ta yêu qúy, được châu toàn, trong một thế gian không ngừng biến đổi. Kẻ cất nhà cát trên bãi biển ắt phải nơm nớp lo sợ sóng biển. Kẻ nào lấy tiền của làm vật bảo đảm ắt phải luôn luôn làm nô lệ cho tiền của. Kẻ nào tìm lẽ sống trong công cuộc làm ăn và để hết tâm trí vào đấy như một việc nhất quyết phải thành tựu cho kỳ được, kẻ ấy không thể yên ổn trong lòng, không thể có tâm thanh bình an lạc. Vậy là ta lo sợ cho chính "Ta", cho tiền của, sự nghiệp "Của Ta", cho con cái ta, bạn bè ta, cho những cái gọi là "Của Ta".

* Khi cái "Ta" bị giới hạn trong ích kỷ hẹp hòi tất có chia rẽ, ganh tị, thèm muốn, tham vọng.

* Khi cái "Ta" được thổi phồng, tự cao tự đại, tất có ngã mạn kiêu căng.

Người đã khai triển tuệ Minh Sát và thấu triệt thực tướng của vạn pháp sẽ có quan điểm chân chánh về kiếp sinh tồn. Người ấy nhận thức rằng tất cả sự vật trên thế gian phù du huyền ảo và tạm bợ nhất thời này tựa hồ như "giọt sương buổi sáng lóng lánh trên lá cây, ngọn cỏ, rồi sớm tan biến khi những tia nắng bình minh bắt đầu rọi xuống, như bong bóng nước, như lằn gạch trên mặt nước, như cái chớp trong đêm tối, như một khối bọt, như ảo ảnh, như giấc mơ..."

Hãy lắng nghe lời khuyên dạy của Ngài Mahasi Sayadaw:

"Người đã có đức tin nơi Giáo Pháp và đã thâu thập một vài kiến thức căn bản về danh (nãma), sắc (rũpa), vô thường (anicca), khổ (dukkha) và vô ngã (anattã), hãy cố gắng hành thiền minh sát. Ðây là pháp nhằm ghi nhận danh và sắc -- luôn luôn trong trạng thái chảy trôi như một dòng suối trường lưu bất tức -- nơi sáu cửa (lục căn), đúng như được chỉ dạy trong Kinh Tứ Niệm Xứ. Ghi nhận những gì mắt thấy, ghi nhận những gì tai nghe, ghi nhận những gì mũi ngửi, ghi nhận những gì lưỡi nếm, ghi nhận những gì thân xúc chạm, ghi nhận những gì tâm suy tư, chừng đó hành giả sẽ nhận thức tất cả những gì cần phải được nhận thức, tương xứng với trình độ mà mình đạt đến.

"Khi chuyên cần chú niệm như vậy, định lực của hành giả trở nên vững chắc và mạnh mẽ, tâm trong sạch. Chừng đó hành giả có thể phân biệt rõ ràng "danh", cái tâm hay biết, và "sắc", cơ thể vật chất, cái được hay biết. Hành giả sẽ nhận chân rằng không có cái gì có thể là attã, bản ngã, hay "Ta". Sự ghi nhận thường xuyên lặp đi lặp lại sẽ dẫn hành giả đến trạng thái thông suốt nhân và quả trong danh sắc. Cuối cùng mọi ý niệm về bản ngã trừơng tồn sẽ tan biến một cách rõ rệt. Trước khi thực hành minh sát hành giả có thể còn nghi ngờ không biết cái Ta đã có hiện hữu không trong quá khứ, có vẫn còn hiện hữu không trong hiện tại, và sẽ còn hiện hữu không trong tương lai. Sau khi thực hành, tất cả mọi nghi ngờ đều chấm dứthành giả đã thấu triệt tận tường bản chất thật sự của mọi hiện tượng.

"Tiếp tục ghi nhận thêm, hành giả sẽ thấy rằng trần cảnh (sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp) cùng với những thức liên hệ (Nhãn thức, nhĩ thức, thiệt thức, thân thức, và ý thức) cũng đều tan biến. Tất cả đều vô thường. Tất cả đều phát sanh và tự nhiên hoại diệt. Những gì vô thường ắt không thể làm thỏa mãn một cách trọn vẹn. Không có chi thật sự có thể chất vững bền. Như vậy thì có cái chi để bám níu vào mà gọi nó là "Ta" hay "Của Ta". Tất cả mọi liên hệ đều ở trong trạng thái di động, chuyển biến, chảy trôi, vừa sanh đã diệt. Quán xét rốt ráo như vậy ta có thể xác quyết tin chắcloại bỏ ý niệm một bản ngã trừơng tồn."

Lúc bấy giờ người ấy đã vượt ra khỏi cái "Ta". Cái gọi là "Tự Ngã" của người ấy đã chan hòa và đồng nhất với tất cả, tất có lòng vị tha bất cầu lợi, có tình huynh đệ tương thân tương ái với tất cả chúng sanh, có tâm từ vô lượng vô biên, có lòng bi mẫn dồi dào và có sự thuận hòa điều hợp với tất cả. Ánh sáng trí tuệ dần dần đánh tan đêm tối của vô minh, tận diệt si mê, tham áisân hận. Người ấy đã thoát ra khoỉ mọi hình thức ái dục và tiến gần đến giải thoát toàn vẹn ra khỏi luân hồi, khỏi mọi đau khổ, đúng như lời Phật day:

"Như ta nhìn bọt nước, như ta nhìn ảo ảnh, nếu người kia nhìn thế gian như vậy Tử Thần không còn thấy người ấy nữa."

Như vậy, thời điểm để thoát ra khỏi vòng quanh đau khổ là khoảng giữa hai vòng khoen "Thọ" và "Ái", tức phản ứng của ta đối với thọ. Bằng con đường nào? Bằng Con Ðường Xưa Cũ mà chư Phật đã trải qua . Ðó là Bát Chánh Ðạo
 
 

Chú thích:

(1) Sách Compendium of Philosophy ghi nhận rằng Kinh sách Phật Giáo phân biệt sáu hạng cười: 1. Sitta, là cái cười tế nhị chỉ biểu hiện niềm vui trên gương mặt. - 2. Hasita , cái cười nhếch môi, vừa để lộ chót răng. - 3. Vihasita, cười khẽ, tạo nên một tiếng động nhỏ. - 4. Upahasita , cười đến nhúc nhích đầu, vai và tay.- 5. Apahasita, cười hỷ hả đến rơi nước mắt. - 6. Atihasita, cười ngã nghiêng ngã ngửa từ dầu đến chân đều di động. Chư Phật Chánh đẳng chánh Giác cười với bốn loại tâm Hành Ðẹp (Sobhaana kiriya Citta), hợp với trí tuệcảm giác hạnh phúc. Ðoạn chú giải này trích dịch từ quyển AManual of Abhidhamma, tác giả Ðại Ðức Narada


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33487)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6628)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11410)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30479)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30498)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 8048)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12296)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12320)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11688)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12951)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34937)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9911)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52346)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10822)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10591)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10785)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10539)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13147)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16365)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21943)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9691)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7190)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10457)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12875)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12859)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16315)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16605)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13939)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16667)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12214)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13928)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14376)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9275)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11810)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11334)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16427)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14426)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16267)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12753)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12160)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11861)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15749)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11590)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14096)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 12081)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12729)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 15059)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 12019)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13196)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14627)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20819)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13311)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 11028)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20788)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14450)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20499)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17738)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 14101)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31940)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12087)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant