Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

312 Câu Tụng Căn Bản Duy Thức Học

25 Tháng Hai 201400:00(Xem: 17715)
312 Câu Tụng Căn Bản Duy Thức Học


312 câu tụng

CĂN BẢN DUY THỨC HỌC

 

HẠNH CƠ Tập hợp và chuyển dịch từ hai bản Luận:

- Duy Thức Tam Thập Tụng, nguyên tác Phạn văn của Bồ-tát Thế Thân, pháp sư Huyền Trang dịch ra Hán văn;

 - Bát Thức Qui Củ Tụng, nguyên tác Hán văn của pháp sư Huyền Trang.

chan-dung-duc-phat


1. DẪN NHẬP

 

Thế gian NGÃ và PHÁP,

gồm muôn hình vạn trạng,

tất cả không thật có,

đều do THỨC chuyển biến.

 

Thức (năng biến) có ba:

Tàng thức (A-lại-da),

Tư-lương thức (Mạt-na),

và Liễu-biệt-cảnh thức.

 

2. THỨC A-LẠI-DA (Thức Thứ Tám)

 

Thứ nhất: A-lại-da,

thường gọi tên Tàng thức,

cũng gọi Dị-thục thức,

hay Nhất-thiết-chủng thức.

 

Tánh vô phú vô kí.

Huân tập mọi chủng tử,

chứa giữ và chuyển hiện,

căn thân, khí, nhận thức.

 

Cách nhận thức: hiện-lượng.

Đối tượng là tánh cảnh

(gồm chủng tử, căn thân,

cùng vô tình thế gian).

 

Tương ưng năm biến-hành:

xúc cùng với tác-ý,

xả-thọ, tưởng,tư,

đều vô phú vô kí.

 

Biển Tàng thức mênh mông,

sâu thẳm khó nghĩ lường,

từ đó bảy chuyển thức

hiện khởi và sinh tồn.

 

Không thể nào nhận biết

sự hoạt động thâm tế

của tất cả chủng tử

trong thức A-lại-da.

 

Cũng không biết đường lối

A-lại-da chấp thọ;

liễu biệt; và thọ sinh

vào ba cõi, chín địa.

 

Hằng chuyển như dòng thác.

Đi sau, đến trước tiên.

A-la-hán, Bất-động,

rời bỏ tên “Tàng thức”;

 

đến địa vị Diệu-giác,

“Dị-thục thức” sạch không;

chủng tử thuần vô lậu,

chuyển thành “Vô-cấu thức”.

 

Đó là trí “Đại-viên”,

tuệ giác Phật-đà,

chiếu sáng mười phương cõi,

độ muôn loài chúng sinh.

 

3. THỨC MẠT NA (Thức Thứ Bảy)

 

Thứ nhì: thức Mạt-na,

được gọi tên là Ý.

Bản chấthành tướng

hằng thẩm tư lương.

 

Chuyển hiện từ Tàng thức,

lại bám chặt Tàng thức,

chấp làm Ngã, Ngã-sở,

ngày đêm đắm hôn mê.

 

Bốn phiền não căn bản:

ngã-singã-kiến,

ngã-mạn cùng ngã-ái,

luôn đeo dính ngăn che.

 

Tương ưng năm biến-hành

(thọ đây là xả-thọ);

tâm sở tuệ (biệt-cảnh);

tám phiền não đại-tùy.

 

Mạt-na (và tâm sở)

tánh hữu phú vô kí.

Chỉ duyên cảnh đới-chất.

Cách nhận thức: phi-lượng.

 

Mạt-na làm chỗ nương

cho cả sáu chuyển thức

theo đó thành nhiễm, tịnh,

nên gọi “nhiễm-tịnh-y”.

 

địa vị phàm phu,

A-lại-da sinh đâu,

Mạt-na sinh theo đó,

“hằng, thẩm” luôn chấp ngã.

 

Hoan-hỉ-địa, bắt đầu

chuyển thành “Bình-đẳng-tánh”;

La-hán, Diệt-tận-định,

Bát-địa: hết chấp Ngã.

 

Chứng quả vị Phật-đà,

hiện thân “tha thọ dụng”,

Bồ-tát và chúng sinh

thấm nhuần ơn hóa độ.

 

4. THỨC LIỄU BIỆT CẢNH (Sáu Thức Trước)

 

Thứ ba: Liễu-biệt-cảnh,

gồm sáu thức khác nhau:

Nhãn, Nhĩ, Tị, Thiệt thức,

Thân thứcÝ thức.

 

Do từ Căn-bản thức,

nương căn, trần làm duyên,

sáu thức này hiện khởi,

như sóng nương trên nước. 

 

4a. Ý THỨC (Thức Thứ Sáu)

 

Do Ý căn (Mạt-na)

tiếp xúc với pháp trần,

chủng tử từ Tàng thức

chuyển hiện ra Ý thức.

 

Tánh: thiện, ác, vô-kí.

Đối tượng gồm ba cảnh:

tánh-cảnh, đới-chất-cảnh,

đặc biệt độc-ảnh-cảnh.

 

Duyên cảnh bằng ba cách:

hiện-lượng (chân và tợ),

thường xuyên là tỉ-lượng,

nhiều trường hợp phi-lượng.

 

Hoạt động dễ nhận biết

ở cả hai hình thái:

Ý thức ngũ-câu;

Ý thức độc-đầu.

 

Bốn trạng thái độc-đầu:

Ý thức tán-vị,

Ý thức trong thiền định,

trong mộng, và điên loạn.

 

Thức này thường tương ưng

năm mươi mốt tâm sở:

năm tâm sở biến-hành

(đủ cả ba cảm thọ);

năm biệt-cảnhdục,

thắng-giải, niệm, định, tuệ,

mỗi một tâm sở này

đối tượng duyên khác nhau;

mười một thiện tâm sở:

tín, tàm, quí, vô-tham,

vô-sân và vô-si,

cần, an, bất-phóng-dật,

hành-xả bất-hại;

sáu căn-bản phiền-não:

tham, sân hận, si mê,

mạn, nghi, và ác-kiến;

hai mươi tùy-phiền-não,

chia ra tiểu, trung, đại:

mười phiền não tiểu-tùy:

phẫn, hận, phú, não, tật,

xan, cuống, siểm, hại, kiêu;

hai phiền não trung tùy:

vô-tàm vô-quí;

tám phiền não đại-tùy:

trạo-cử với hôn-trầm,

bất-tín cùng giải-đãi,

phóng-dậtthất-niệm,

tán-loạn, bất-chánh-tri;

bốn tâm sở bất-định:

hối, miên, tầmtừ,

mỗi loại tâm sở này

có thể thiện hay ác.

 

Ý thức luôn biến đổi:

hết thiện sang bất thiện,

lại đến lúc vô kí;

đang khiDục giới,

cũng vào định Sắc giới,

hoặc định Vô-sắc giới;

vui, buồn... bao tâm hành

thay nhau đến rồi đi...

 

Nương tánh “thẩm” của Ý,

làm động lực mạnh mẽ,

sai khiến thân và miệng

tạo các nghiệp dẫn, mãn.

 

Dùng chánh niệm quán sát

hoạt động của Ý thức,

có thể biết dễ dàng

quả báo trong ba cõi.

 

Ý thức thường hiện khởi,

trừ ở trời Vô-tưởng,

trong hai định vô-tâm,

ngủ say, và bất tỉnh.

 

Khi lên Hoan-hỉ địa,

Bồ-tát chỉ đoạn trừ

phân-biệt ngã pháp chấp;

nhưng câu-sinh vẫn còn.

 

Bước lên Bất-động địa,

Ý thức thuần vô lậu,

thành trí “Diệu-quán-sát”,

sáng soi cõi đại-thiên.

 

4b. NĂM THỨC TRƯỚC (tiền ngũ thức)

 

Nhãn, Nhĩ, Tị, Thiệt, Thân,

gọi chung “năm thức trước”,

cũng gọi “năm thức thân”,

năm thức cảm giác.

 

Do năm căn phù-trần

đối trước năm trần cảnh,

chủng tử từ Tàng thức

nương nơi tịnh-sắc-căn

phát hiện ra năm thức;

hoặc chung, hoặc không chung.

Người thường khó phân biệt

thứccăn khác nhau.

 

Khi hoạt động độc lập:

hiện lượng; duyên tánh cảnh;

đầy đủ cả ba tánh;

năm tâm sở biến-hành.

 

Thời thường hoạt động chung

cùng ý thức ngũ-câu:

về lượng, cũng như cảnh,

đều tùy thuộc Ý thức;

 

ba mươi bốn tâm sở:

biến-hành, biệt-cảnh, thiện,

hai trung, tám đại-tùy,

cùng với tham, sân, si.

 

Nhãn thức chín duyên sinh;

Nhĩ thức tám duyên sinh;

Tị, Thiệt và Thân thức

chỉ cần bảy duyên sinh.

 

Nhãn, Nhĩ, Tị, Thiệt, Thân:

hai trước căn cảnh lìa,

ba sau căn cảnh hợp,

để nhận rõ trần thế.

 

Ngũ-thú-tạp-cư địa:

đủ năm thức hiện hành;

Sơ-thiền: Nhãn, Nhĩ, Thân;

từ Nhị-thiền: không hiện.

 

Khi được trí Hậu-đắc,

năm thức duyên chân như

qua thế giới hiện tượng,

nhận rõ sanh, pháp không.

 

Trí Đại-viên phát sinh,

năm thức thuần vô lậu,

chuyển trí “Thành-sở-tác”,

độ sinh thoát khổ luân.

 

5. DUY THỨC

 

Các thức ấy chuyển biến,

phân biệt (kiến phần),

bị phân biệt (tướng phần),

đó là Ngã và Pháp.

 

Ngã và Pháp nếu lìa

sự biến hiện của thức,

thì đều không hiện hữu;

nên tất cả là THỨC.

 

Do thức Nhất-thiết-chủng

hằng chuyển biến trùng trùng,

nhờ năng lực triển chuyển,

mọi thứ phân biệt sinh.

 

Do tập khí các nghiệp,

tập khí hai thủ,

dị thục trước vừa hết,

liền sinh dị thục sau.

 

6. BA TỰ TÁNH và BA VÔ TÁNH của VẠN PHÁP

 

Do tánh biến-kế-chấp

biến kế tất cả vật,

“biến-kế-sở-chấp” này,

vốn không có tự tánh.

 

Vạn pháp đều nương nhau,

phát sinh và hiện hữu;

nên tự tánh của chúng

gọi là: “y-tha-khởi”.

 

Do quán chiếu thấy rõ

vạn pháp “y tha khởi”,

xa lìa tánh biến kế,

hiện tánh “viên-thành-thật”.

 

Tự tánh viên-thành-thật

cùng tánh y-tha-khởi

không khác, không không khác;

cả hai không tách rời.

 

Không thấy tánh vô-thường,

không đạt cảnh niết-bàn;

không thấy tánh y-tha,

không đạt viên-thành-thật.

 

Từ ba tự-tánh này

lập nên ba “vô-tánh”;

mật ý Phật dạy rằng:

vạn pháp không tự tánh.

 

Trước hết “tướng vô tánh”:

Tướng biến-kế-sở-chấp

hư vọng không thật có,

nên không có tự tánh.

 

Kế, “vô tự nhiên tánh”:

Các pháp do duyên sinh,

không phải tự nhiên có,

nên không có tự tánh.

 

Sau, “thắng-nghĩa vô tánh”:

Do lìa biến-kế chấp,

viên-thành-thật hiện tiền,

nên không có tự tánh.

 

Thắng nghĩa của vạn pháp

cũng tức là Chân-như,

(tánh nó là như thế),

tức Thật tánh Duy-thức.

 

7. NĂM ĐỊA VỊ TU CHỨNG

 

Khi phát tâm bồ đề,

nhưng còn chưa an trú

trong thể tánh Duy-thức,

thuộc địa vị Tư-lương;

kiến chấp Ngã và Pháp

tạm ngưng trên Ý thức,

còn tùy-miên của chúng

chưa điều phục diệt trừ.

 

Do tu duy-thức-quán,

vừa an trụ phần nhỏ

trong thể tánh Duy-thức,

đó là Gia-hạnh vị;

nhưng vì thấy “có trụ”

(tức thấy có “sở đắc”),

nên chưa thật an trụ

trong thể tánh Duy-thức.

 

Khi đối cảnh sở-duyên,

trí không thấy sở đắc,

đã dứt trừ hai thủ

(ngã chấppháp chấp),

địa vị Thông-đạt;

năng, sở như huyễn hóa,

bấy giờ mới thực sự

an trụ Duy-thức tánh.

 

Cảnh giới “vô-sở-đắc”

thật không thể nghĩ bàn,

là trí xuất-thế-gian

(tức trí vô-phân-biệt).

Đó là Tu-tập vị,

dứt sạch sở-tri chướng,

tuyệt trừ phiền-não chướng,

thành tựu quả Chuyển-y.

 

Đây cảnh giới Vô-lậu,

địa vị Cứu-cánh,

cảnh giới không nghĩ bàn,

cảnh giới cực thuần thiện,

cõi thanh tịnh chân thường,

an lạc, giải thoát thân,

đại tịch mặc, pháp thân,

vô thượng chánh đẳng giác.

 

 

HẠNH CƠ

Miền Tây Gia-nã-đại, 2010

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2298)
“Tướng” là cái gì? “Tướng” chính là tướng trạng của sự vật biểu hiện nơi ngoài và tưởng tượng ở nơi trong tâm chúng ta.
(Xem: 33492)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6647)
Duy Thức Học được gọi là môn triết họcmôn học này nhằm khai triển tận cùng nguyên lý của vạn hữu vũ trụ nhân sanh mà vạn hữu vũ trụ nhân sanh...
(Xem: 6628)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 3905)
Tạo sao gọi là Phổ Môn? vì tự tính của mình phổ biến khắp hư không pháp giới, nên gọi Phổ Môn.
(Xem: 5172)
“Quán” là xem xét, “Thế Âm” là âm thanh của thế gian. Quán Thế Âmxem xét âm thanh thế gian, tiêu biểu cho lòng từ bi của Bồ-tát.
(Xem: 11411)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30480)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 8048)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12297)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 3328)
Một bài pháp được ban cho chư Tăng Ni ở International Mahayana Institute tại Boudhanath, Nepal, ngày 2 tháng 2, năm 1975. Nicholas Ribush hiệu đính.
(Xem: 34939)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 52348)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 13147)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 21944)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9691)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 3128)
"Niệm Phật" nghĩa là xưng danh hiệu - hay nhớ tưởng đến hình tướng, bản nguyện hay công đức của một đức Phật - như Phật Thích-ca hay Phật A-di-đà.
(Xem: 10457)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12877)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12860)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16317)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 13929)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14378)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9275)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11811)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11334)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 11590)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 12729)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 20788)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 17741)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 31940)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12087)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11887)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 4366)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, Luận Tập Bộ Toàn; Kinh văn số 1678. Pháp Hiền dịch ra chữ Hán. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12818)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10398)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 16485)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 11853)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14866)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 12085)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16928)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 12779)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 52303)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 12711)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 9976)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 14560)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20212)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13847)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15456)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17555)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 16853)
Nhập Trung Quán Luận (PDF) - Tổ Sư Nguyệt Xứng - Chuyển dịch: Thích Hạnh Tấn, TN Nhật Hạnh
(Xem: 13534)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 12538)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12110)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13331)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12590)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 25680)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 14603)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 28405)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 10351)
"Tánh Không" (còn gọi là tính-không) là một từ ngữ liên hệ đến sự giảng dạy chính yếu của mọi ngành Phật giáo, nhưng ý nghĩa thật sự của từ ngữ nầy thường bị hiểu lầm.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant