Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Quan điểm về ăn chay của đạo Phật

06 Tháng Năm 201100:00(Xem: 21888)
Quan điểm về ăn chay của đạo Phật

QUAN ĐIỂM VỀ ĂN CHAY CỦA ĐẠO PHẬT

Biên Soạn: Tâm Diệu
Sửa Chữa Bản In: Liên Hương Và Tâm Linh
Hoa Sen Xuất Bản 10.400 cuốn tại Hoa Kỳ và 2.000 cuốn tại Việt Nam


MỤC LỤC

 

Lời Giới Thiệu Của Hòa Thượng Thích Minh Châu

Lời Giới Thiệu Của Hòa Thượng Thích Duy Lực

Lời Đầu Sách

 

Chương 1

Quan Điểm Ăn Chay Của Người Tây Phương

Sức Khỏe

Môi Sinh

Tình Trạng Thiếu Ăn Trên Thế Giới

Lòng Nhân Từ Với Súc Vật

 

Chương 2

Quan Điểm Về Ăn Chay Của Đạo Phật

Quan Điểm Của Phật Giáo Nguyên Thủy

Quan Điểm Của Phật Giáo Đại Thừa

Giới Không Sát Sanh

Phóng Sanh

Ăn Chay Trong Kinh Điển Đại Thừa

Nghi Vấn Về Nguyên Do Đức Phật Niết Bàn

Y Nghĩa Bất Y Ngữ

 

Chương 3

Tổng Kết

Lời Kêu Gọi Thay Cho Lời Cuối Sách

 

Chương 4

 

Những Câu Hỏi Đáp Về Vấn Đề Ăn Chay

 

Chương 5

Phụ Trương: Isoflavones Đậu Nành

Chiến Đấu Chống Ung Thư Vú Bằng Rau Đậu

Phụ Trương: Kinh Từ Bi

Tài Liệu Tham Chiếu
Đề mục câu hỏi
Lời kính thưa 


LỜI GIỚI THIỆU Của Hòa Thượng Thích Minh Châu

Đạo Phậtđạo Từ Bi và Trí Tuệ. Đức Phật đã giới thiệu cho chúng ta con đường dẫn đến đoạn trừ khổ đau. Đó là con đường Giới, Định, Tuệ. Toàn bộ lời dạy của Ngài cô đọng trong bài kệ kinh Pháp Cú sau đây:

"Không làm các điều ác

Thành tựu các hạnh lành

Tâm ý giữ trong sạch

Chính lời chư Phật dạy" (Pháp Cú 183)

Thế nên, mỗi mỗi Phật tử cần tư duy và hành động đúng theo con đường Giới, Định, Tuệ mà Đức Phật đã chỉ dạy để đem lại an lạc, hạnh phúc cho mình và mọi người. Trong đó, việc ăn chay của người Phật tử cũng không ngoài ý nghĩa này, là tránh làm tổn thương sinh mạng chúng sinhphòng ngừa được một số bệnh nan y mà ngành y học ngày nay đã xác nhận và có kinh nghiệm trong việc điều trị.

 

Chúng tôi, từ lâu vẫn trung thành với đường hướng giáo dục Giới, Định, Tuệ qua lời dạy của Đức Phật để đào tạo những lớp người kế thừatài đức, có sức khoẻ để phục vụ cho Đạo pháp và Dân tộc. Do vậy, những công trình, những sáng kiến để đóng góp cho đường hướng giáo dục này, chúng tôi vô cùng hoan nghênh đón nhận.

 

Tác giả Tâm Diệu, là cựu sinh viên của Viện Đại Học Vạn Hạnh, đã gửi đến cho tôi tập sách Quan Điểm Về Ăn Chay Của Đạo Phật. Nội dung chính xoáy quanh những điểm dị biệt trong vấn đề ăn chay theo quan điểm của hai truyền thống Phật giáo Nguyên thủyĐại thừa phát triển ngang qua một số kinh điển Phật giáo. Tác giả đã nêu bật được tính chất chung Từ biTrí Tuệ của Đạo Phật trong vấn đề này. Tuy nhiên, vẫn còn một vài điểm trong đó chúng tôi nghĩ rằng cần phảithời gian để làm sáng tỏ.

 

Chúng tôi trân trọng giới thiệu tập sách nầy đến với Độc giả.

 

Mùa xuân năm Mậu Dần 1998

Tỳ Kheo Thích Minh Châu,

Viện Trưởng Học Viện Phật Giáo Việt Nam


 LỜI GIỚI THIỆU  Của Hòa Thượng Thích Duy Lực

Theo thống kê ba căn bệnh gây chết người nhiều nhất ở Hoa Kỳ là bệnh tim, bệnh ung thư và bệnh tai biến mạch máu não, mà nguyên nhân chính là ăn thịt và các thực phẩm biến chế từ nguồn gốc thịt động vật. Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại thay vì từ động vật vốn đã mang sẵn những mầm mống có hại, dễ gây bệnh tật cho cơ thể con người.

Nay có đạo hữu Tâm Diệu đã từ bỏ ăn thịt cá, chuyển qua ăn trường trai được hơn tám năm, đạt được nhiều lợi ích từ tinh thần đến thể chất, vì lòng từ bi muốn đem lợi ích cá nhân này để chia xẻ với tất cả mọi người, nên đã ra công biên soạn hai quyển sách về ăn chay, quyển sách đầu có tựa đề là Thực Phẩm Rau Đậu Qua Lăng Kính Khoa Học và quyển sách thứ hai này Quan Điểm Về Ăn Chay Của Đạo Phật cốt để làm sáng tỏ sự lợi hại của việc ăn thịt cá và ăn chay, cũng như nói lên tầm quan trọng về vấn đề khá tế nhị này trong đạo Phật.

Tôi là một tu sĩ Phật giáo luôn luôn tuân theo lời dạy của Phật Thích Ca, đang học và hành hạnh Bồ Tát để giúp mọi người. Qua hai quyển sách này, cảm thấy đạo hữu Tâm Diệu cũng đang học và thực hành hạnh Bồ Tát đúng theo lời Phật dạy nên tôi rất hoan hỷ, tán thán và có những lời giới thiệu như trên.  

 

Tỳ Kheo Thích Duy Lực,

Từ Ân Thiền Đường, California, Hoa Kỳ

 

 

LỜI ĐẦU SÁCH

Theo nhan đề của cuốn sách này, chúng tôi chỉ có chủ tâm khảo sát các quan điểm về ăn chay của đạo Phật, nhưng vì muốn quý độc giả có một cái nhìn tổng quát về vấn đề ăn chay nên trước khi đi vào nội dung chính của quyển sách chúng tôi tóm lược qua quan niệm hiện nay của người Hoa Kỳ nói riêng và người Tây Phương nói chung về vấn đề này.

Ngoài ra, nói đến ăn chay mà không nói đến đậu nành, thực phẩm chánh của người ăn chay là một điều thiếu sót nên chúng tôi trình bày thêm về đậu nành và những khám phá mới nhất của khoa học về chất isoflavones trong đậu nành.

 

Thêm vào đó, nơi phần cuối quyển sách là những câu hỏi đáp liên quan đến vấn đề ăn chaychúng tôi nghĩ rằng quý độc giả sẽ tìm thấy câu hỏi và câu trả lời thích hợp cho mình.

 

Đối với người Tây phương, chính sách ăn chay đang đi vào dòng sinh hoạt chính của đời sống. Từ xưa chế độ ăn thịt cá, một lối ăn uống tiêu biểu của người Tây phương đã được coi như một sinh lộ (a way of life). Ngày nay, do sự tiến bộ của khoa học qua các công trình nghiên cứu, cho thấy rằng chế độ dinh dưỡng bằng cá thịt không còn là sinh lộ mà là một tử lộ (a way of death).

 

Đối với Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm dị biệt về ăn chay giữa hai truyền thống Đại Thừa và Nguyên Thủy, nhưng tựu chung vẫn có những căn bản giống nhau.

 

Các học giả nghiên cứu Phật giáo cho rằng sự dị biệt là do người đời sau thêm thắt hay sửa đổi vì trước khi kinh điển được chép thành sách thì nó đã trải qua giai đoạn truyền khẩu, đằng khác, không những trong giai đoạn truyền khẩu, mà cả trong giai đọan kinh điển được lập thành văn tự, không ai có thể tin chắc 100 phần trăm tính cách chính xác tuyệt đối được.

 

Tuy nhiên, chúng tôi không khảo sát theo lối của các học giả Tây phươngtuân theo lời Phật dạytìm hiểu ý nghĩa trong lời nói, không bám chặt vào ngôn từ, và cũng không rời nguyên tắc của Phật khi Ngài nói Pháp, là khế lý và khế cơ, tức là lời Ngài nói luôn luôn hợp với lý chân thật của muôn sự muôn vật và thích hợp theo cơ duyên của từng chủng loại chúng sinh, từng căn tánh, từng thời tiết nhân duyên.

 

Tâm nguyện thì như vậy, tuy nhiên, nếu có sự diễn giải nào sai với ý Phật và Chư Tổ, đệ tử xin chí thành sám hối trước ba đời mười phương chư Phật và xin chư độc giả lượng thứ. Nếu có chút gì công đức, xin hồi hướng đến khắp pháp giới chúng sinh trọn thành Phật đạo.

 

Nam mô Thường Trụ Mười Phương Tam Bảo.

 

Tâm Diệu

Source: Tu viện Quảng Đức


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 163)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 215)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 409)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 308)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 337)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 386)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 621)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 678)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 637)
Tóm tắt: Phật giáo là tôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 685)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 599)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 541)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 594)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 686)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 702)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 800)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 598)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 492)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 574)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 667)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 588)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 591)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 695)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 710)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 703)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 768)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 791)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 768)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 961)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 828)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1386)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 913)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1077)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 832)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1060)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 991)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 980)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1121)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1398)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1743)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 971)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1158)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 968)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 817)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 947)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 971)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1394)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1142)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1173)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 924)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1068)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1518)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1397)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1388)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 980)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1374)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1288)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1213)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1252)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant