Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Hình tượng "Đa Văn Thiên Vương" trong văn hóa Phật giáo Trung Quốc

14 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 13535)
Hình tượng "Đa Văn Thiên Vương" trong văn hóa Phật giáo Trung Quốc
Hình tượng "Đa Văn Thiên Vương"
trong văn hóa Phật giáo Trung Quốc 
Nguyên Thái Hòa

Đa Văn Thiên Vương là một vị thần trong thần thoại của Ấn Độ cổ. Theo truyền thuyết, ngài là thần Dạ xoa có tên Kuvera hay Kubera. Ngoài ra, ngài cũng được gọi là Vaiśravana hoặc Vessavana, phiên âm Hán Việt là Tỳ Sa Môn. Còn xung quanh việc xuất thân của ngài, cho đến nay vẫn còn nhiều truyền thuyết khác nhau. Nhưng có một truyền thuyết phổ biến nhất kể lại rằng: Kubera (phiên âm Hán Việt: Câu Tỳ La) được vị thần sáng tạo của Ấn ĐộĐại Phạm Thiên sai bò mẹ mang thai và sinh ra. Thần vốn hiền lành, không thích tranh đấu nên bị người em khác mẹ là La Sát Vương đuổi đến Lanka (nay là Srilanka), về sau, thần di cư đến Cương Nhân Ba Tề (núi thần của Phật giáo tại A Lý - Tây Tạng). Mặc dù bị đuổi khỏi gia đình, nhưng do có căn tu cộng thêm hàng ngàn năm khổ luyện, nên Kubera được Đại Phạm Thiên ban cho sự trường sinh bất tử, trong coi kho báu của thế gian và cũng là vị thần bảo hộ của phương Bắc. Tại Ấn Độ, vai trò của Kubera quan trọng không kém gì thần đầu voi Ganesa(1).

Sau khi được du nhập vào Phật giáo Ấn Độ, Tỳ Sa Môn trở thành một vị trấn giữ phương Bắc của cõi trời thứ nhất trong Dục giới, chuyên hàng phục chúng ma, bảo hộ Phật pháp cùng chúng sanh. Bởi theo quan niệm thế giới quan của Phật giáo, thế giới chia làm ba cõi: Dục giới, Sắc giớiVô sắc giới, gọi chung là Tam giới. Theo đó, tất cả chúng sanhthế gian đều chịu kiếp luân hồi trong Tam giới này, và chỉ khi nào tu hành đạt đến cảnh giới Niết bàn thành Phật thì mới thoát ra khỏi, không còn chịu kiếp nạn luân hồi. Trong Tam giới, Dục giới là giới thấp nhất, có: địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, a-tu-la, loài người cùng một bộ phận thiên thần. Trong Dục giới lại có 6 cõi trời, và cõi thứ nhất chính là nơi ngự trị của Tỳ Sa Môn. Và cũng như các vị Hộ pháp khác, Tỳ Sa Môn được miêu tả mình mặc giáp trụ, thân màu lục, mặt vàng, tay cầm lọng báu che chở cho chúng sanh. Trong “Đại tập kinh” có ghi, đó là trách nhiệm to lớn của Ngài mà chư Phật đã ủy thác ở cả hiện tạivị lai(2).

Khi Phật giáo được du nhập vào Trung Quốc, người Trung Quốc xưng tụng Ngài là Duō Wén Tiān Wáng (多闻天王), phiên âm Hán Việt là Đa Văn Thiên Vương, với ý nghĩa là “vị thiên vương nghe cả thế giới”. Từ đó, theo từng vùng chịu ảnh hưởng của Phật giáo Đại thừa Trung Quốc mà tên gọi của vị thần này được phiên âm khác nhau. Tại Nhật Bản, vị thần này được gọi là Tamon-ten hoặc Bishamon-ten, tại Hàn Quốc là Damun-cheonwang(3) và tại Việt Nam cũng gọi là Đa Văn Thiên Vương.

Đa Văn Thiên Vương cùng với các vị thần Trì Quốc Thiên Vương, Tăng Trưởng Thiên Vương, Quảng Mục Thiên Vương hợp thành Tứ Đại Thiên Vương và đều là thành viên của 20 chư thiên. Theo truyền thuyết Phật giáo, các vị này là những Thiên vương dẫn đầu trong 8 vị thần tướng, trấn giữ 4 phương của núi Tu Di, nên cũng gọi là “Tứ Thiên Vương”, “Tứ Đại Kim Cang”, “Hộ Thế Thiên”... Trách nhiệm của các vị là hộ trì Phật pháp, bảo vệ chúng sanh, đem lại cho chúng sanh sự an cư lạc nghiệp, tài bảo đầy đủ, phúc đức tăng trưởng, tiến vào Chánh pháp. Do vậy, từ xưa đến nay, Tứ Đại Thiên Vương có mối quan hệ rất gần gũi và mật thiết với chúng sanh, được tôn thờ ở nhiều nơi, trong các chùa, miếu trên khắp Trung Quốc. Mà hình tượng thường thấy nhất là 4 vị to lớn, uy nghi, được đặt ở Thiên Vương điện, gần cổng chính khi vào chùa.

Truyền thuyết dân gian Trung Quốc đã nhắc đến các vị này từ thế kỷ thứ IV, nhưng phải đến thời Đường (618 - 907), hình tượng của Tứ Đại Thiên Vương mới lần đầu tiên xuất hiện qua các thư tịch cổ cùng những bức tượng, phù điêu bằng gỗ, đồng hay trên vách đá... còn lưu lại đến ngày nay, với: Đông phương Trì Quốc Thiên Vương, thân màu trắng, mình mặc giáp trụ, tay trái cầm đao, tay phải cầm trường mâu hoặc cầm cung tên; Nam phương Tăng Trưởng Thiên Vương, thân màu xanh, mình mặc giáp trụ, tay cầm bảo kiếm; Tây phương Quảng Mục Thiên Vương, thân màu đỏ, mình mặc giáp trụ, tay trái cầm trường mâu, tay phải cầm xích thừng, cũng có lúc một tay cầm bảo kiếm; Bắc phương Đa Văn Thiên Vương, thân màu lục, mình mặc giáp trụ, tay trái cầm gậy tích trượng hoặc trường mâu, tay phải cầm bảo tháp. Dưới chân của Tứ Thiên Vương đều giẫm lên một con quỷ biểu thị cho uy lực của Chánh pháp(4). Sau thời Nguyên (1271 - 1368), Phật giáo ở nhiều địa phương của người Hán từng bước được Hán hóa, theo đó mà hình tượng của Tứ Đại Thiên Vương cũng có một vài thay đổi về phong cách tạo hình. Cụ thể: Đông phương Trì Quốc Thiên Vương tay cầm đàn tỳ bà; Nam phương Tăng Trưởng Thiên Vương tay cầm thanh quang bảo kiếm; Tây phương Quảng Mục Thiên Vương tay cầm con rắn; Bắc phương Đa Văn Thiên Vương tay cầm lọng báu, phân chức thành Phong, Điều, Vũ, Thuận.

Trong Tứ Đại Thiên Vương, thì Bắc phương Đa Văn Thiên Vương là vị thần nổi danh nhất. Ngài vừa là hộ thần của phương Bắc Ấn Độ cổ, lại là vị thần tài phú, dùng võ để giúp người, được đại chúng kính ngưỡng, tôn thờ và Ngài cũng là vị thần được tôn thờ sớm nhất trong Tứ Đại Thiên VươngTrung Quốc. Tại các hang đá ở Vân Cương (tỉnh Sơn Tây, đã được UNESCO công nhậnDi sản Văn hóa thế giới vào năm 2001), Long Môn (tỉnh Hà Nam) đã sớm có những bức tượng về Ngài. Sở dĩ như vậy, là theo truyền thuyết dân gian, vào thời nhà Đường, niên hiệu Thiên Bảo nguyên niên (742), có giặc Tây Vực sang xâm chiếm thành Tây An. Lúc này, Đa Văn Thiên Vương đã hiện thân tại lầu thành Bắc Môn, dẫn trăm thần binh nghênh chiến với địch, phái “sóc vàng” cắn đứt dây cung của quân địch, đại phá vòng vây. Để cảm phục ơn đức của Ngài, Đường Huyền Tông lập tức truyền lệnh cho các châu, phủ, thành ở vùng giáp ranh Tây bắc đều tạc tượng Thiên Vương, sau đó lại lệnh cho các ngôi chùa xây dựng “biệt viện” mà đặc biệt thờ phụng Ngài(5). Và cho đến ngày nay, ở các địa phương này của Trung Quốc, Đa Văn Thiên Vương còn được xem là một vị thần chiến đấu và tín ngưỡng tôn thờ Ngài cực thịnh.

Đa Văn Thiên Vương là vị thần trấn giữ phương Bắc, Ngài đồng thời bảo hộ Phật pháp, thường xuyên nghe Như Lai thuyết pháp, nên gọi là Đa Văn Thiên Vương, lại là vị thần tài bố thí, vượt biển hành đạo, ban bố tài bảo kim lượng cho chúng sanh. Với công đức vô lượng của Ngài như vậy, nên trong dân gian thờ phụng rất phổ biến, gọi Ngài là “Đa Bảo Thiên Vương” hay “Tài Bảo Thiên Vương”. Và tín ngưỡng dân gian cũng tin rằng, Ngài chính là hóa thân của một vị Đại Bồ tát.

Trong Phật giáo Mật tông, Tài Bảo Thiên Vương là một trong bảy Phúc thần, hình tượng thường thấy của Ngài là cưỡi trên con sư tử, đầu đội Bảo quang, toàn thân màu vàng kim, tay phải cầm lọng, tay trái nắm con “sóc vàng” miệng nhả hạt châu bảo, tượng trưng cho tài phú liên tục không ngừng. Ngài là vị thần nắm giữ việc chuyển hóa phúc báocông đức, tài phú của thế gian, bảo hộ Phật pháp, diệt trừ ma chướng, làm thanh tịnh cảnh giới Ta bà.

Đa Văn Thiên Vương hay Tài Bảo Thiên Vương, là một trong những vị thần của Đế Thích, có năng lực bảo hộ thế gian, nên cũng được gọi là Hộ Thế Giả. Danh hiệu của Ngài: Bắc phương Tỳ Sa Môn Đa Văn Thiên Vương, là biểu hiện cho sự phúc đức công hạnh của Ngài và là sự hóa thân của Nam phương Bảo Sanh Phật trong Ngũ phương Phật. Bên cạnh Ngài còn có 8 vị tài thần thuộc hạ, gọi là “Bát tuấn Tài thần” hay “Bát lộ Tài thần”, nắm giữ ở 8 hướng, cùng giúp cứu độ chúng sanh, làm sung túc, đủ đầy nguyện cầu của tín chúng.

Theo giáo lý Phật giáo, muốn nhận được sự gia trì của Tài Bảo Thiên Vương và Bát Lộ Tài Thần, thì chúng sanh cần giữ được “Tam quy, Ngũ giới”, như chuyên tâm niệm chú, có tấm lòng từ bi hỷ xả, và thường phát hạnh nguyện làm việc thiện mang lại lợi lạc cho tất cả chúng sanh, lúc đó sự nghiệp sẽ thuận lợi, mọi kế hoạch lớn nhỏ đều phát triển, hanh thông, cầu tài được tài, tương ứng nhanh chóng.

Ngày nay, trong tín ngưỡng dân gian Trung Quốc, mà đặc biệttín ngưỡng thờ thần tài, bên cạnh các vị thần như: Triệu Công Minh, Quan Vũ, Bỉ Can, Phạm Lãi..., thì có không ít các gia đình Phật tử hay trong các cửa hàng buôn bán đều thờ phụng Đa Văn Thiên Vương làm thần tài, với mong muốn được Ngài bảo vệ, chở che cũng như mua may bán đắt - như ở thành phố Côn Minh, tỉnh Vân Nam. Còn tại núi Phi Lai, thành phố Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang, có nhiều gian thờ Đa Văn Thiên Vương được tạc trên vách núi, có cặp liễn đối nói về nguyện vọng của thiện nam tín nữ trong việc tôn thờ Ngài rằng:

秉教统领诸天大千世界

以宝普施众地不二法门

Bỉnh giáo thống lĩnh chư thiên đại thiên thế giới

Dĩ bảo phổ thí chúng địa bất nhị pháp môn

Tạm dịch:

Nắm chắc giáo lý của Phật, quản lãnh chư thiên khắp các cõi trời trong muôn ngàn thế giới.

Lấy Pháp bảo của Phật, ban khắp thế gian hướng chúng sanh đến con đường duy nhấtgiải thoát

 

(1) 诺布旺典: (唐卡中的财神), 152页, 陕西师范大学出版社, 2009 年.

(2) 诺布旺典: (藏密财神法), 224页, 紫禁城出版社, 2008 年.

(3) http://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90a_V% C4%83n_thi%C3%AAn_v%C6%B0%C6%A1ng

(4) 李跃忠: (财神),107-108 页, 中国社会出版社, 2009 年.

(5) 李跃忠: (财神), 108 页, 中国社会出版社, 2009 年.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. 仓圣: (财神图说), 哈尔滨: 黑龙江美术出版社, 2005年.

2. 马书田, 马书侠: (全像福寿财神), 江西美术出版社, 2008 年.

3. 诺布旺典: (藏密财神法), 紫禁城出版社, 2008 年.

4. 李跃忠: (财神), 中国社会出版社, 2009 年.

5. 诺布旺典: (唐卡中的财神), 陕西师范大学出版社, 2009 年.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1372)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1402)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 1108)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1270)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1739)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1683)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1573)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 1154)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1537)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1500)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1411)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1465)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1788)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
(Xem: 2137)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1506)
Chúng ta đau khổ do vì vô minh, cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ những quan điểm lệch lạc sai lầm và phát triển quan điểm đúng đắn.
(Xem: 1161)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh, bất đoạn và bất thường, bất nhất và bất dị, bất lai và bất xuất, là sự tịch diệt mọi hý luận, và là an ổn.
(Xem: 1496)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 2174)
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士), Thiền sư Việt Nam đời Trần (1230-1291) có viết trong bài Phóng cuồng ngâm (放狂吟):
(Xem: 1543)
Nhân loại luôn luôn hướng về sự hoàn thiện của chính mình trong tất cả mọi mặt, vật chấttinh thần.
(Xem: 1629)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết nên quyết chí xuất gia học đạo. Đức Phật thành đạo tại thế gian này và cũng hoằng pháp bốn mươi chín năm cũng tại thế gian này.
(Xem: 1465)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.
(Xem: 3088)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1457)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông, như một số vị thầy hiện nay đã ngộ nhận, khi nói rằng pháp môn này xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
(Xem: 1465)
Trong quá trình phát triển, Phật giáo xuất hiện tư trào Đại thừa, nhấn mạnh lý tưởng Bồ tát đạo.
(Xem: 1791)
Tuy Phật giáo Nguyên thủyđại thừa có hai con đường đi đến giải thoát giác ngộ khác nhau.
(Xem: 1763)
Trong cuộc sống này, ai cũng muốn mình có được một sự nghiệp vẻ vang. Người đời thì có sự nghiệp của thế gian.
(Xem: 1699)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1549)
Nhận thức Phật giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật.
(Xem: 2719)
Con người sống do và bằng ý nghĩ. Ý nghĩ cao cấp thì cuộc sống trở nên cao cấp; ý nghĩ thấp kém thì cuộc sống thành ra thấp kém.
(Xem: 1684)
Đạo nghiệpsự nghiệp trong đạo. Tuy nhiên cái gì hay thế nào là sự nghiệp trong đạo thì cần phải phân tích cặn kẽ để hiểu đúng và thành tựu đúng như pháp.
(Xem: 1671)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1485)
Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn
(Xem: 1510)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1683)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả vinh hoa phú quý...
(Xem: 1614)
Trong cả Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Đại thừa đều có tư tưởng về Bồ tát. Các ngài xả thânhạnh nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sanh
(Xem: 1492)
Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tát. Đời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.
(Xem: 1484)
Xung đột là một hiện tượng phổ biến. Nó hiện diện khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ trong những mối quan hệ ...
(Xem: 1563)
Trong Kinh tạng, khái niệm nghiệp thường được nhắc đến một cách đơn giản và khái quát như nghiệp thiện, ác hoặc nghiệp của thân, miệng, ý.
(Xem: 2260)
Đức Phật Dược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinh giác ngộ.
(Xem: 1597)
Chơn Thật Ngữ chính là Phật ngữ, là chánh pháp ngữ, là thanh tịnh ngữ vì nó đem lại niềm tin sự hoan hỷ an lạclợi ích chúng sanh.
(Xem: 1578)
Ý thức thì suy nghĩ như thế này, nếu sanh thì không phải là diệt, nếu thường thì không phải là vô thường, nếu một thì không phải khác
(Xem: 1711)
Theo kinh điển Phật giáo, việc lắng nghe chính xác, rõ ràng và đầy đủ là một trong những nền tảng quan trọng để thành tựu trí tuệ.
(Xem: 1918)
Chân lý Phật, vừa giản dị vừa rất thâm sâu. Vì thế, Đức Phật đã mượn những câu chuyện dụ ngôn, gắn với hình ảnh của ...
(Xem: 1598)
Tích Niêm Hoa Vi Tiếu kể rằng một hôm trên núi Linh Thứu, Đức Thế Tôn lặng lẽ đưa lên một cành hoa.
(Xem: 1472)
Kinh Pháp Hoa, hay Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), là một trong những bộ kinh quan trọng
(Xem: 1715)
Khi ánh sao mai vừa tỏ rạng cũng là lúc Đức Phật thành tựu chân lý tối thượng.
(Xem: 1484)
Tất cả các pháp tướng Như hay lìa tướng Như đều không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ
(Xem: 1791)
Tất cả chúng sinh mê hoặc điên đảo từ vô thỉ. Nay dùng giác pháp của Phật khai thị, khiến chúng sinh nghe mà ngộ nhập.
(Xem: 2465)
Người tu hành theo Phật Giáo nhắm mục đích là tự mình chứng ngộ và vận dụng cái Tâm đó.
(Xem: 1534)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 2034)
Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.
(Xem: 1757)
Còn gọi là Quy Luật Duyên Khởi, vì đó là lý thuyết về quy luật tự nhiên, quy luật không thuộc về của riêng ai.
(Xem: 1824)
Hình thành tại Ấn Độ từ thế kỷ VI trước Công nguyên, Phật giáo đã phát triển việc truyền bá chánh pháp khắp xứ Ấn Độ và...
(Xem: 1681)
Khi hiểu được việc lành dữ đều có quả báo tương ứng, chỉ khác nhau ở chỗ đến sớm hay muộn mà thôi,
(Xem: 2007)
Tư tưởng chủ đạo của Thuyết nhất thiết Hữu Bộ là: “các pháp ba đời luôn thật có, bản thể luôn thường còn”,
(Xem: 1745)
Xa lìa tà hạnh (không tà dâm) có nghĩa chính yếu là nguyện chung thủy với người bạn đời của mình.
(Xem: 1510)
Người đệ tử Phật thực hành pháp thứ hai một cách hoàn hảo là không trộm cướp, chính xácxa lìa việc lấy của không cho.
(Xem: 1775)
Sau khi phát tâm quy y Tam bảo, người Phật tử được khuyến khích giữ giới (thực hành năm pháp), giới thứ nhất là xa lìa sát sinh.
(Xem: 1634)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá Đạo
(Xem: 1608)
Đứng trước biến động khó khăn của cuộc đời, Phật giáo với tinh thần từ bitrí tuệ, lấy tôn chỉ Phật pháp bất ly thế gian pháp đã
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant