Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần Cuối Tỷ-kheo Giới

18 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 8258)
Phần Cuối Tỷ-kheo Giới

TỲ KHEO GIỚITỲ KHEO NI GIỚI
Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải

TỲ KHEO GIỚI

IV. Phần Cuối Tỷ-kheo Giới

Đức tính nhẫn nhục 
là đạo bậc nhất, 
Phật nói vô vi 
là pháp tối thượng;
là người xuất gia 
mà bức não người, 
thì không được gọi 
là bậc sa môn.

Bài tụng này là Giới kinh được thuyết ra bởi đức Tỳ-bà-thi, đấng như lai, đấng vô trước, đấng chánh biến tri.

Ví dụ như người 
có đôi mắt sáng, 
mới có khả năng 
tránh đường hiểm nghèo
thế giới mà có 
những người thông minh
thì có khả năng 
xa rời điều ác.

Bài tụng này là Giới kinh được thuyết ra bởi đức Thi-khí, đấng như lai, đấng vô trước, đấng chánh biến tri.

Không hề phỉ báng 
cũng không ganh ghét
và hãy kính cẩn 
tuân hành giới pháp
bằng cách ăn uống 
cũng biết vừa đủ
thường thường thích thú 
ở chỗ thanh vắng
tâm trí định tĩnh 
ưa thích tinh tiến,
đó là những điều 
chư Phật huấn dụ.

Bài tụng này là Giới kinh được thuyết ra bởi đức Tỳ-diệp-la, đấng như lai, đấng vô trước, đấng chánh biến tri.

Ví như loài ong 
hút lấy mật hoa, 
thì không thương tổn 
sắc hương của hoa, 
mà chỉ hút lấy 
cái vị mật ngọt, 
Tỷ-kheo cũng vậy, 
đi vào làng xóm, 
thì không can dự 
công việc người khác, 
không nhìn đáng làm 
hay không đáng làm, 
mà chỉ tự nhìn 
bản thân mà đi 
coi có ngay thẳng 
hay không ngay thẳng.

Bài tụng này là Giới kinh được thuyết ra bởi đức Câu-lưu-tôn, đấng như lai, đấng vô trước, đấng chánh biến tri.

Tâm trí không nên 
có sự phóng dật
pháp của bậc thánh 
phải siêng học tập, 
được như thế ấy 
không còn lo buồn, 
tâm trí ổn định 
nhập vào niết bàn.

 

Bài tụng này là Giới kinh được thuyết ra bởi đức Câu-na-hàm mâu-ni, đấng như lai, đấng vô trước, đấng chánh biến tri.

Tất cả điều ác 
đừng có làm đến, 
tất cả điều thiện 
kính cẩn mà làm, 
tự mình làm sạch 
tâm trí của mình, 
những điều như vậy 
là chư Phật dạy.

Bài tụng này là Giới kinh được thuyết ra bởi đức Ca-diếp, đấng như lai, đấng vô trước, đấng chánh biến tri.

Khéo léo mà giữ 
miệng lưỡi lời tiếng, 
tự mình làm sạch 
tâm trí của mình, 
thân thể nữa 
cũng đừng làm ác, 
đó là đường sạch 
của cả ba nghiệp
khả năng đạt được 
đường sạch như vậy, 
chính là đường đi
của bậc đại tiên.

Bài tụng này là Giới kinh của đức Thích-ca mâu-ni, đấng như lai, đấng vô trước, đấng chánh biến tri, thuyết ra cho chư tăng không có mọi sự tội lỗi trong 12 năm. Từ đó về sau chỉ là phân tích phong phú Giới kinh này.

Chư vị Tỷ-kheo, những ai ưa thích giáo phápưa thích sa môn, những ai có sự hổ thẹn lấy mình và có sự hổ thẹn với người, ưa thích học giới pháp, thì phải học các Giới kinh này.

Những người minh triết 
giữ được giới pháp 
thì thực hiện được 
ba thứ vui thích
một là danh thơm 
hai là lợi quí 
ba là chết rồi 
sinh lên chư thiên.

Cần phải cứu xét 
cái điều này đây, 
mà người có trí 
nên giữ giới pháp. 

Giới mà trong sạch 
lại có tuệ giác
thì thực hiện được 
cái đạo bậc nhất.

Tất cả Phật đà 
trong thì quá khứ
cùng chư Thế tôn 
hiện tại vị lai
chiến thắng lo buồn 
là do cùng nhau 
tôn kính giới pháp
và chính điều này
là cái nguyên tắc 
của chư Phật đà.

Nếu có người nào 
biết tự vì mình 
tìm đường đi 
của chư Phật đà
thì hãy tôn trọng 
đối với chánh pháp
đó là huấn thị 
của chư Như lai.

Bảy đức Phật đà 
đấng Thế tôn
đã trừ diệt hết 
mọi thứ kiết sử
và đã thuyết ra 
bảy bản Giới kinh
làm cho giải thoát 
mọi thứ ràng buộc
làm cho nhập vào 
niết bàn tối thượng
ở đó vĩnh viễn 
diệt sạch hý luận.

Tôn trọng tuân hành 
Giới kinh Phật nói, 
cùng với giới pháp 
hiền thánh ca tụng
con em của Phật 
mà làm như vậy 
thì sẽ nhập vào
niết bàn tịch diệt.

Khi đức Thế tôn 
sắp nhập niết bàn
Ngài đã nổi dậy 
lòng thương to lớn, 
chiêu tập đầy đủ 
chư vị Tỷ-kheo, 
và dạy như vầy 
đối với giới pháp
Chư vị đừng nói 
Như lai nhập diệt 
thì không ai giữ
cho người thanh tịnh
Như lai đã khéo 
nói ra Giới kinh
Như lai lại khéo 
nói ra giới pháp
dẫu rằng Như lai 
nhập vào niết bàn
chư vị hãy coi 
Giới ấy như Phật.
Giới kinh tồn tại 
lâu dài trong đời
thì Pháp của Phật 
sẽ được hưng thịnh, 
và Pháp của Phật 
mà hưng thịnh lên, 
thì làm cho người 
được nhập niết bàn.

Nếu không tuân giữ 
giới pháp như vầy
và không đúng phép 
cử hành bố-tát, 
thì như mặt trời 
đến lúc lặn mất, 
cả thế giới này 
tối tăm mịt mù. 

Hãy cố mà giữ 
giới pháp như vầy,
như bò đuôi dài 
tiếc giữ đuôi nó,
bằng cách hòa hợp 
tập hợp thuyết giới
đúng như Phật đà 
đã từng huấn dụ.

Tôi đã thành kính 
tụng lại Giới kinh
chư tăng cũng đã 
bố-tát hoàn tất

Tôi tụng Giới kinh 
được bao công đức
nguyện hiến chúng sinh 
cùng thành Phật đạo.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 44)
Bước đầu tiên để bước vào con đường Phật giáo là quy y Tam Bảo, và viên ngọc đầu tiên trong ba viên ngọc mà chúng ta tiếp cận để quy y là Đức Phật, Đấng Giác Ngộ.
(Xem: 56)
Đạo Phật là đạo của bi trí dũng. Đạo của trí tuệ, của chánh biến tri, và chánh tri kiến chứ không phải không thấy mà tin tưởng mù quáng.
(Xem: 140)
Phân biệt phước đức và công đức là cần thiết cho việc học và hành đạo Phật.
(Xem: 151)
Sơ quả hay Tu-đà-hoàn là quả vị Thánh đầu tiên mà người Phật tử có thể chứng đạt ngay hiện đời.
(Xem: 246)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(Xem: 276)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 293)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 359)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 279)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 350)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 457)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 421)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 362)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 451)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 672)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 523)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 544)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 639)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 831)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 896)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 930)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 904)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 786)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 774)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 775)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 872)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 884)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 1005)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 777)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 669)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 774)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 875)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 788)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 782)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 901)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 929)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 887)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 931)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 963)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 955)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1149)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 1016)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1740)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1114)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1250)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 993)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1267)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1171)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1177)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1344)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1638)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 2096)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1149)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1406)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1147)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 999)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1107)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1150)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1574)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant