Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Điều Gì Xảy Ra Khi Chúng Ta Chết? Đây Là Những Gì Đạo Phật Nói!

27 Tháng Mười Một 201607:57(Xem: 8760)
Điều Gì Xảy Ra Khi Chúng Ta Chết? Đây Là Những Gì Đạo Phật Nói!

ĐIỀU GÌ XẢY RA KHI CHÚNG TA CHẾT?
ĐÂY LÀ NHỮNG GÌ ĐẠO PHẬT NÓI!

Tuệ Uyển
chuyển ngữ, 22/11/2016

 
Điều Gì Xảy Ra Khi Chúng Ta Chết

Giáo lý Đạo Phật đưa ra một sự giải thích hài lòng nhất về vấn đề con người đến từ chốn nào sẽ đi về chốn nào. Khi chúng ta chết, tâm thức với tất cả những thiên hướng, sở thích, năng lựcđặc tính đã từng được phát triển và quy định trong kiếp sống này, sẽ tự tái xây dựng trong một chúng sanh mới. Vì vậy một cá thể mới sinh trưởng và phát triển cá tính được quy định cả bằng những đặc tính tinh thần đã mang theo từ kiếp sống trước và cả bằng môi trường mới. Cá tính sẽ thay đổi và được điều chỉnh bằng những nổ lực ý chíyếu tố nhân duyên như giáo dục, sự ảnh hưởng của cha mẹxã hội nhưng một lần nữa vào lúc chết, nó sẽ tự thiết lập như một đời sống mới trong một chúng sanh mới. Tiến trình của chết và tái sinh này sẽ tiếp tục cho đến khi những điều kiện tạo ra nó như những nhân tố tinh thần về tham dụcsi mê chấm dứt. Khi những nhân tố tinh thần ấy hoạt động như vậy, thay vì tái sanh thì tâm thức sẽ thể nhập vào một thể trạng gọi là niết bàn.

Tâm thức di chuyển từ thân thể này đến thân thể khác như thế nào?

Khi một người sắp chết, người ấy bắt đầu đánh mất sự kiểm soát ý thức của tiến trình tinh thần. Rồi đến lúc hành động và thói quen của người ấy bị ngăn trở với ký ức xảy ra. Trong nhiều trường hợp, trong tâm thức người ấy phát sinh một hình ảnh tinh thần. Hình ảnh ấy là hoàn toàn tự động và được sản sinh bởi nghiệp nhân hay hay hành động quá khứ của người ấy. Vì vậy lệ thuộc vào bản chất của nghiệp nhân đặc thù mà sản sinh ra hình ảnh này, người ấy có thể thấy những hình thể trong bóng tối đen, những hình ảnh đáng sợ, hay người ấy có thể thấy những thân quyến của người ấy hay có thể là những cảnh tượng tươi đẹp. Rất thường, người ấy sẽ la khóc vào những cảnh tượng ấy hay chú ý đến những kẻ viếng thăm người ấy. Mặc dù thân thể vật chất có thể yếu đuối, nhưng những tư tưởng này thì rất mạnh mẽ khi tiếp cận cái chết. Khi thân thể cuối cùng rả rời hoàn toàn lúc chết thì những năng lượng này phát sinh như những năng lượng tinh thần. Như năng lượng không thể bị hủy hoại, chúng phải tự xây dựng trong một thân thể mới vì thể tạo ra hiện tượng tái sanh.

 Hãy nghĩ về nó giống như những làn sóng truyền thanh radio vốn không được tạo ra bằng những từ ngữâm nhạc nhưng tầng số năng lượng khác nhau, được truyền đi, lan tỏa lập tức khắp không gian, được tiếp thu bằng những khí cụ mà từ đó máy truyền thanh phát ra chúng như từ ngữ hay âm nhạc. Cũng giống như vậy với tâm thức. Vào lúc chết, năng lượng tinh thần lan tỏa qua không gian, được đón nhận từ những trứng thụ tinh của bà mẹ tương lai, được tái sanh như một con người mới và biểu hiện như một cá thể mới.

Vì thế, thật quan trọng là người sắp chết được làm cho an tịnh và được nhắc nhở về những việc làm tốt lành của người ấy. Người ấy không nên bị làm cho bối rối và những người viếng thăm không nên quá đau buồn trong sự hiện diện của người ấy. Cũng không có những ý kiến không quen thuộc như một tôn giáo mới được giới thiệu cho người ấy. Đức Phật nhắc nhở rằng khi một người sợ hãi, thì người ấy nên được nhắc nhở để nhớ đến Phật, Pháp, và Tăng.

Có phải người ta luôn luôn tái sanh như những con người?

Không, có vài cảnh giới mà một cá thể có thể được tái sanh. Một số người được tái sanh ở những cõi trời, một số tái sanh trong những địa ngục, một số có thể được tái sanh như những quỷ đói, hay các thú vật, hay sanh vào cõi a tu la. Cõi trời không phải là một nơi chốn nhưng là một thể trạng tồn tại, nơi mà chúng sanh có một thân thể vi tế và nơi mà tâm thức trải nghiệm chính yếusung sướng. Một số tôn giáo cố gắng rất nghiệt ngã để được tái sanh trong sự hiện hữucõi trời, tin tưởng một cách sai lầm rằng đó là một thể trạng vĩnh cửu. Nhưng không phải như thế. Giống như tất cả những thể trạng duyên sanh, thiên đàngvô thường và khi tuổi thọ đã mãn, chúng sanh ấy chắc chắn phải tái sanh trở lại như một con người, hay những cõi khác trong sáu cõi luân hồi như a tu la, súc sanh, quỷ đói hay địa ngục. Địa ngục cũng giống như thế, không phải là một nơi chốn nhưng là một thể trạng hiện hữu nơi chúng sanh có một thân thể vi tế và nơi tâm thức trải nghiệm chính yếulo lắngcăng thẳng. Hiện hữu là quỷ đói, xét cho cùng là một thể trạng tồn tại nơi thân thểvi tế và là nơi mà tâm thức liên tục bị phiền hà bởi sở hữubất mãn. Thế nên, chúng sanh cõi trời trải nghiệm chính yếusung sướng, chúng sanh địa ngục và quỷ đói trải nghiệm chính yếuđau khổchúng sanhcõi người trải nghiệm thông thường là lẫn lộn cả hai thứ khổ và vui. Vì vậy, sự khác biệt chính yếu giữa cõi người và những cõi khác là loại thân thể và phẩm chất trải nghiệm.

Không lỗi thấy sai quấy
Có lỗi thấy là không
Do chấp tà kiến như vậy
Chúng sanh sanh cảnh khổ 

Có lỗi biết là lỗi
Không lỗi biết là không lỗi
Do phải quấy thông suốt
Chúng sanh sanh cảnh vui
Pháp cú 318-319 (Thư viện hoa sen)

Điều gì quyết định nơi chúng ta sẽ tái sanh?

Nhân tố quan trọng nhất nhưng không phải là duy nhất, tác động đến nơi chúng ta sẽ tái sanh và sự sống nào chúng ta sẽ có, đó là nghiệp. Chữ nghiệp (karma) có nghĩa là 'hành động' và liên hệ đến những hành động tinh thần cố ý của chúng ta. Nói cách khác, chúng ta là gì được quyết định rất nhiều bởi vấn đề chúng ta đã suy nghĩ và hành động thế nào trong quá khứ. Giống như thế, vấn đề chúng ta suy nghĩ và hành động thế nào bây giờ sẽ tác động đến vấn đề chúng ta sẽ ra sao trong tương lai. Giống như những làn sóng truyền thanh sẽ được tiếp thu bởi một máy radio biến thành những năng lượng đặc thù của nó, những năng lượng tinh thần sản sinh vào lúc chết sẽ tái thiết lập một cách tự nhiên trong một thân thể vật chất mới phù hợp nhất với nó. Do vậy, loại người tế nhị, yêu thương sẽ được tái sanh trong cõi trời hay như một con người trong một môi trường thoải mái. Loại người băn khoăn, lo lắng, hay cực kỳ độc ác sẽ bị tái sanh trong cõi địa ngục, hay như một con thú hay một con  người được sanh ra trong một môi trường cực kỳ khó khăn.

Không chỉ có chứng cứ khoa học hổ trợ cho hiện tượng tái sanh, mà nó là một giáo thuyết sự sống nối tiếp sự sốn có mọi chứng cứ hổ trợ cho nó. Trong ba mươi năm trở lại đây các nhà cận tâm lý (parapsychologists) đã và đang nghiên cứu cho biết rằng một số người nào đó có những ký ức sinh động về những kiếp sống quá khứ của họ. Giáo sư  Ian Stevenson (31/10/1918 – 8/2/2007) của trường đại học Virginia Khoa tâm lý đã diễn tả hàng chục trường hợp về loại này trong những quyển sách của ông. Ông là một nhà khoa học được công nhận trong quá trình nghiên cứu 25 năm về những người nhớ về những kiếp sống quá khứ của họ là chứng cứ rất mạnh mẽ về sự tái sanh.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 118)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 147)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 218)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 147)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 199)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 180)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 217)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 231)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 315)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 557)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 421)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 433)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 526)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 709)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 765)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 785)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 795)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 693)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 668)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 678)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 789)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 810)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 905)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 672)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 580)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 678)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 798)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 685)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 690)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 785)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 808)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 790)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 836)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 863)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 850)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1039)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 915)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1577)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1022)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1172)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 912)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1173)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1084)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1080)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1227)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1505)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1937)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1053)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1312)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1055)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 912)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1038)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1069)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1495)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1227)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1251)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 989)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1146)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1612)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant