Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Thế Giới Chuyển Biến, Theo Kinh Hoa Nghiêm

20 Tháng Giêng 202220:04(Xem: 1922)
Thế Giới Chuyển Biến, Theo Kinh Hoa Nghiêm

Thế Giới Chuyển Biến, Theo Kinh Hoa Nghiêm

Nguyễn Thế Đăng

hinh phat 2


Vũ trụ này thực sự là gì? Tại sao có những thế giới nhiễm ô của chúng sanh? Làm gì để “chuyển biến” thế giới nhiễm ô thành thế giới thanh tịnh? Chúng ta sẽ tìm hiểu để thực hành những vấn đề này theo phẩm Thế giới thành tựu thứ tư của Kinh Hoa Nghiêm.

1/ Vũ trụ này thực sự là gì?

Trí huệ công đức biển rất sâu

Hiện khắp mười phương vô lượng cõi

Tùy các chúng sanh đáng được thấy

Quang minh chiếu khắp chuyển pháp luân.

Mười phương biển cõi chẳng nghĩ bàn

Phật vô lượng kiếp đều nghiêm tịnh

Vì độ chúng sanh khiến thành thục

Xuất hiện tất cả các cõi nước.

Vũ trụ này là “biển trí huệ, công đức hiện khắp mười phương cõi” của Phật Tỳ Lô Giá Na. Vũ trụ này là “ánh sáng chiếu khắp chuyển pháp luân” của Phật. Vũ trụ này là “mười phương biển cõi chẳng thể nghĩ bàn, đều trang nghiêm thanh tịnh từ vô lượng kiếp của Phật”.

Nghe được (Văn) như thế, suy nghĩ sâu sắc (Tư) về vũ trụ Phật như thế, và thiền định thiền quán (Tu) vũ trụ Phật ấy, người thực hành sẽ thấy vũ trụ này là “sự chuyển pháp luân khắp cả” của Phật Tỳ Lô Giá Na. Đó gọi là Nhập Pháp Giới, như tựa đề của phẩm cuối cùng của Kinh Hoa Nghiêm. Pháp giới này, là cảnh giới Phật Tỳ Lô Giá Na.

Chúng sanh rộng lớn đến vô biên

Như Lai tất cả đều hộ niệm

Chuyển chánh pháp luân khắp mọi nơi

Đây là cảnh giới Tỳ Lô Phật.

Cảnh giới ấy là Pháp thân Tỳ Lô Giá Na thị hiện thành Báo thân quang minhHóa thân tức là tất cả vũ trụ, cho đến trong mỗi hạt bụi.

Pháp thân chư Phật chẳng nghĩ bàn

Không sắc không hình không ảnh tượng

chúng sanh hiện tướng sai khác

Tùy tâm họ thích đều khiến thấy

Tất cả cõi nước những hạt bụi

Trong mỗi hạt bụi Phật đều nhập

Khắp vì chúng sanh hiện thần biến

Pháp Tỳ Lô Giá Na như vậy.

2/ Tại sao có những thế giới nhiễm ô của chúng sanh?

Thế nhưng chính trong và trên pháp giới Tỳ Lô Giá Na Đại Quang Minh Tạng này lại có những thế giới nhiễm ô bất tịnh của chúng sanh sanh ra, đó là do:

Chúng sanh bị phiền não loạn nhiễm

Phân biệt ham muốn chẳng một tướng

Tùy tâm tạo nghiệp chẳng nghĩ bàn

Tất cả biển cõi đều thành lập.

Tất cả các cõi nước nhiễm ô bất tịnh đều do tâm nhiễm ô bất tịnh của chúng sanh mà sanh ra:

Tất cả các cõi nước

Đều tùy nghiệp lực sanh

Các ông nên quan sát

Tướng chuyển biến như vậy.

Những chúng sanh nhiễm ô

Nghiệp phiền não đáng sợ

Tâm họ khiến cõi nước

Tất cả thành nhiễm ô.

Phân biệt và các phiền não tham, sân, si, kiêu mạn, đố kỵ… đã làm cho pháp giới “một tướng” thành những phân mảnh đối nghịch nhau, chống đối nhau, thành sanh tử khổ đau. Phân biệt và các phiền não tích tập nhiều thì thành tập khí (những khuynh hướng thói quen, habitual tendencies), đây là cơ sở cho thế giới nhiễm ô nhưng tạm thời, thành lập một cách hư vọng, hiện khởi.

Tất cả cõi do tâm phân biệt

Quang minh soi đến mà hiện ra

Chư Phật ở trong những cõi ấy

Nơi nơi thị hiện thần thông lực.

Có cõi tạp nhiễm hoặc thanh tịnh

Chịu khổ hưởng vui đều khác nhau

Đều do biển nghiệp chẳng nghĩ bàn

Các pháp lưu chuyển luôn như vậy.

Trong một chân lông vô lượng cõi

Đồng số hạt bụi mà an trụ

Mỗi cõi đều có Phật Biến Chiếu

Ở trong chúng hội diễn diệu pháp.

Tất cả các cõi nhiễm ô bất tịnh đều do tâm phân biệt chứa những thứ phiền nãoxuất hiện. Nhưng dù xuất hiện nhiễm ô bất tịnh thế nào thì chúng cũng phải xuất hiệnhiện hữu trên nền tảng quang minh của Phật Tỳ Lô Giá Na Biến Chiếu: “Quang minh soi đến mà hiện ra, chư Phật ở trong những cõi ấy, nơi nơi thị hiện thần thông lực”.

Cụ thể, một ý tưởng, một niệm phân biệt, phiền não của mỗi chúng ta đều chỉ hiện khởi được trên nền tảng ánh sáng của Pháp thân Phật. Nó hiện hữu chốc lát và lại tan vào ánh sáng của Pháp thân Phật. Đây là sự thực hành thiền địnhthiền quán để tâm càng ngày càng sâu rộng cho đến lúc tương ưng được với Pháp giới Tỳ Lô Giá Na.

Để tương ưng, vào được pháp giới Phật Tỳ Lô Giá Na “hiện khắp mười phương vô lượng cõi”, hành giả bắt đầu bằng lòng tin trong sạch để hành đạo Bồ tát, mà trọn vẹn là hạnh Bồ tát Phổ Hiền:

Cảnh Phật rất sâu khó nghĩ bàn

Khắp dạy chúng sanh khiến được vào

Tâm họ ưa nhỏ chấp các cõi

Chẳng thông đạt được cảnh giới Phật.

Nếu lòng tin trong sạch vững chắc

Thường được gần gũi thiện tri thức

Tất cả chư Phật hộ niệm cho

Đây mới vào được Như Lai trí.

Lìa các nịnh dối tâm thanh tịnh

Thường vui từ bi tánh hoan hỷ

Chí nguyện rộng lớn tin hiểu sâu

Khi nghe pháp này lòng vui đẹp.

An trụ Phổ Hiền những hạnh nguyện

Tu hành đạo Bồ tát thanh tịnh

Quan sát pháp giới như hư không

Bèn biết cảnh giới hạnh của Phật.

3/ Các thế giới chuyển biến

Bấy giờ, Bồ tát Phổ Hiền lại bảo đại chúng rằng:

Các Phật tử! Nên biết thế giới hải có số nhiều như hạt bụi của thế giới hải kiếp chuyển biến khác nhau. Vì pháp như vậy nên thế giới hảivô lượng kiếp thành kiếp hoại chuyển biến. Vì chúng sanh nhiễm ô nên thế giới hải chuyển biến thành kiếp nhiễm ô. Vì chúng sanh tu phước rộng lớn nên thế giới hải chuyển biến thành kiếp nhiễm tịnh. Vì Bồ tát tin hiểu trú ngụ nên thế giới hải chuyển biến thành kiếp nhiễm tịnh. Vì vô lượng chúng sanh phát Bồ đề tâm nên thế giới hải chuyển biến thành kiếp thanh tịnh. Vì các Bồ tát đều đi khắp các thế giới nên thế giới hải vô biên kiếp chuyển biến trang nghiêm. Vì mười phương tất cả các Bồ tát vân tập nên thế giới hải vô lượng kiếp chuyển biến đại trang nghiêm. Vì chư Phật vào Niết bàn nên thế giới hải kiếp trang nghiêm chuyển biến diệt. Vì chư Phật xuất hiện ra đời nên tất cả thế giới hải kiếp rộng lớn trang nghiêm thanh tịnh chuyển biến. Vì thần thông biến hóa của Như Lai nên thế giới hải kiếp chuyển biến thanh tịnh khắp. Có vi trần số kiếp chuyển biến như vậy”.

Những thế giới hải, những biển thế giới (y báo) có vô số chuyển biến, tùy theo thân tâm (chánh báo) của tất cả chúng sanh sống trong đó. Cho nên bài kệ Bồ tát Phổ Hiền khi tuyên lại nghĩa này đã mở đầu:

Tất cả những cõi nước

Đều tùy nghiệp lực sanh

Các ngài nên quan sát

Tướng chuyển biến như vậy.

Những chúng sanh nhiễm ô

Nghiệp phiền não đáng sợ

Tâm họ khiến cõi nước

Tất cả thành nhiễm ô.

Nếu có tâm thanh tịnh

Tu những hạnh phước đức

Tâm họ khiến cõi nước

Tạp nhiễmthanh tịnh.

Những thế giới chúng sanh sanh ra là do nghiệp lực. Nghiệp nhiễm ô phiền não thì thế giới chuyển biến thành nhiễm ô, và nếu chúng sanhtâm thanh tịnh, làm hạnh phước đức thì thế giới tạp nhiễm dần dần chuyển biến thành thanh tịnh. Thế giới này tốt hơn hay xấu hơn tùy thuộc vào tâm và hạnh của con người sống trong đó chuyển biến tốt hơn hay xấu hơn. Và thực hành đạo Phậtcon đường để con người chuyển biếnthế giới chuyển biến thành tốt đẹp thanh tịnh.

Cho nên sự sắp xếp các thế giới chuyển biến thành thanh tịnh tùy theo cấp độ tâm hạnh thanh tịnh của các Bồ tát cho đến Phật.

Các Bồ tát tin hiểu

Sanh vào trong kiếp kia

Tùy tâm Bồ tát này

Cõi nước đủ tịnh nhiễm.

Vô lượng số chúng sanh

Đều phát tâm Bồ đề

Tâm họ khiến cõi nước

Kiếp trụ thường thanh tịnh.

Bồ tát tin hiểu ở cấp Mười tín, Mười trụ, Mười hạnh, Mười hồi hướng. Bồ tát này chưa chứng Pháp thân ở cấp Mười Địa, nhưng tâm hạnh đã bắt đầu đẩy lùi nhiễm ô của thế giới nên thế giới vừa có nhiễm vừa có tịnh.

Còn nếu tất cả vô lượng số chúng sanh trong thế giới ấy đều phát Bồ đề tâm thì kiếp trụ của thế giới ấy thường thanh tịnh. Đây là hàng Bồ tát sơ phát tâm, nhưng nếu tất cả chúng sanh trong thế giới đều phát Bồ đề tâm và phát triển Bồ đề tâm ấy trong mọi mặt của đời sống hàng ngày thì thế giới ấy thường thanh tịnh.

Phát Bồ đề tâm nguyện và làm Bồ đề tâm hạnh là trụ cột làm thế giới chuyển biến.

Vô lượng ức Bồ tát

Đến khắp mười phương cõi

Trang nghiêm không khác nhau

Trong kiếp thấy sai khác.

Vô lượng ức Bồ tát đến khắp mười phương cõi, đều dùng hạnh Bồ tát để trang nghiêm, nên nói là “trang nghiêm không khác nhau”, cho các cõi nước. Đây là hàng Bồ tát Pháp thân, mà đời sống của các ngài là “tịnh Phật quốc độ, thành tựu chúng sanh”.

Các Bồ tát Pháp thân đều cùng một hạnh “trang nghiêm không khác nhau”, đều cùng “tịnh Phật quốc độ, thành tựu chúng sanh”, nhưng vì có những cõi có tịnh có nhiễm nên những chúng sanh ở các cõi đó thấy các Bồ tát ấy và y báo, tức là thế giới của các ngài, có sai khác, “trong kiếp thấy sai khác”. Chúng sanh thấy có sai khác vì nghiệp của họ có sai khác, nhưng các Bồ tát Pháp thân đều được các kinh gọi là các Phật tử, các con Phật, nghĩa là cùng một dòng máu Phật, một hạnh Phật, và cái thấy của các ngài, dầu chưa hoàn toàn, thì thế giới này với riêng các ngài bắt đầu hiện thành thế giới thanh tịnh của Phật. Cũng do cái thấy và hạnh thanh tịnh này mà các Bồ tát có thể chịu đựng được, nhẫn chịu được những nghiệp sai khác nhau của chúng sanh, vì Bồ tát đã thấy được “thật tướng của tất cả các hiện tượng (các pháp)”. Với tâm thanh tịnh (chánh báo) các vị có thể sống trong thế giới thanh tịnh (y báo) của riêng mình, bất chấp nghiệp nhiễm ô của chúng sanh, bất chấp thế giới nhiễm tịnh của chúng sanh.

Cho đến khi hoàn toàn thanh tịnh, hoàn toàn đạt được Pháp thân thì Bồ tát thấy được, thân chứng được thế giới nhiễm tịnh này, thậm chí trong từng hạt bụi, là pháp giới của Phật. Hay nói cách khác, pháp giới là sự thị hiện của Pháp thân, Báo thânHóa thân của Phật Tỳ Lô Giá Na.

Trong mỗi mỗi hạt bụi

Cõi Phật nhiều như bụi

Bồ tát cùng vân tập

Cõi nước đều thanh tịnh.

dĩ nhiên, với chư Phật, tất cả pháp giới đều xưa nay thanh tịnh, hoàn toàn trang nghiêm, hoàn toàntịnh độ. Thế nên, đối với một vị Phật thì nhập Niết bàn hay ứng hiện ra đời thì vẫn là Pháp thân, Báo thânHóa thân bất biến không dứt. Nhưng với chúng sanh, nếu có Phật ra đời, nghĩa là có thị hiện thành Hóa thân hay Sắc thân ở cõi này để chúng sanh có thể thấy, nghe, tri giác thì họ có đủ hoàn cảnh, điều kiện, đủ duyên để làm “pháp khí” hầu nâng cấp mình cho đến giải thoát, giác ngộ. Do tâm hạnh thanh tịnh ấy nên cõi này có đủ sự trang nghiêm.

Nếu Phật nhập Niết bàn, vào cõi Thường Tịch Quang (theo kinh Đại Bát Niết Bàn), trong đó vẫn đủ cả Ba Thân, nhưng không có Hóa thân ở cõi này, chúng sanh không còn thấy Hóa thân Phật, không còn chỗ cụ thể để nương nhờ, quy y, để trở thành pháp khí, cho tâm dễ dàng thanh tịnh mà thấy được “đầy đủ sự trang nghiêm” của Phật, Pháp, Tăng, thường trụ.

Thế tôn nhập Niết bàn

Cõi ấy trang nghiêm diệt

Chúng sanh chẳng pháp khí

Thế giới thành tạp nhiễm.

Nếu có Phật ra đời

Cõi nước đều tốt đẹp

Tùy tâm họ thanh tịnh

Trang nghiêm đều đầy đủ.

Lực thần thông chư Phật

Thị hiện chẳng nghĩ bàn

Bấy giờ các biển cõi

Tất cả khắp thanh tịnh.

Như vậy, thế giới chuyển biến là do con người sống trong đó chuyển biến, tịnh hóa thân tâm và thế giới của mình và người. Đây là công việc Phật hóa thân tâm và thế giới của mình và người, Phật hóa toàn bộ chánh báoy báo của tất cả mọi người.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 152)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 229)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 256)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 287)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 358)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 564)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 630)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 569)
Tóm tắt: Phật giáo là tôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 634)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 561)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 500)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 563)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 638)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 652)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 744)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 564)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 465)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 548)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 622)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 551)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 559)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 663)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 678)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 658)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 726)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 766)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 737)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 928)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 786)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1316)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 869)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1031)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 797)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1016)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 961)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 929)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1072)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1324)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1680)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 925)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1099)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 920)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 786)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 908)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 947)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1358)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1106)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1141)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 896)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1033)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1469)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1356)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1347)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 969)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1346)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1255)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1175)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1214)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1579)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant