Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Đại Viên Cảnh Trí

01 Tháng Tám 202215:45(Xem: 1934)
Đại Viên Cảnh Trí
Đại Viên Cảnh Trí

Nguyễn Thế Đăng

tam vo lau hoc

Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán. 


Đại viên cảnh trí là gì? Là trí như tấm gương (cảnh) hoàn toàn (đại) tròn đầy, viên mãn (viên). Dịch gọn là trí như tấm gương tròn đầy.

Kinh Phật Địa nói “có năm pháp gồm trong Phật địa: 1/ Pháp giới thanh tịnh, 2/ Đại viên cảnh trí, 3/ Bình đẳng tánh trí, 4/ Diệu quan sát trí, 5/ Thành sở tác trí.
Kinh cũng nói pháp giới thanh tịnh có tất cả thế giới, tất cả sắc tướng, tất cả chúng sanh cùng với nghiệp của họ, nhưng pháp giới thanh tịnh không vì thế mà nhiễm ô. Như thế tất cả chúng sanh đều ở trong pháp giới thanh tịnh và trong đại viên cảnh trí nhưng không biết, không thể nghiệm được. Các Bồ tát ở trong mười địa Pháp thân thì chứng được từng phần, chỉ có chư Phật mới giác ngộ hoàn toàn.

“Lại nữa, Diệu Sanh! Đại viên cảnh trí là như gương tròn đầy, nương vào gương ấy mà các hình bóng ảnh hiện. Như thế, nương nơi gương trí Như Lai các hình bóng của sáu xứ, sáu cảnh, sáu thức ảnh hiện. Duy lấy gương tròn đầy bình đẳng, thế nên gương trí gọi là Đại viên cảnh trí”.
Theo hệ thống Duy thức hay Du già hành tông, đại viên cảnh trí là do thức nền tảng hay thức A lại da của chúng sanh chuyển hóa thành. Theo Kinh Nhập Lăng Già bản tánh của thức A lại da vốn thanh tịnh:
“Đại Huệ! Tạng thức A lại da Như Lai tạng này bản tánh thanh tịnh chỉ vì khách trần nhiễm ô mà hóa bất tịnh.”
Nói cách khác, bản tánh của thức A lại da là đại viên cảnh trí của Như Lai, và đại viên cảnh trí là Pháp thânBồ tát từ Sơ địa trở lên thực sự chuyển hóa hay tịnh hóa thức A lại da thành đại viên cảnh trí pháp thân nên được gọi là Pháp thân Bồ tát.
Chuyển hóa hay tịnh hóa thế nào? Tịnh hóa sự chấp thật “các hình bóng ảnh hiện của sáu xứ, sáu cảnh, sáu thức”. Càng tịnh hóa đến đâu tấm gương đại viên cảnh trí vốn trống không và sáng tỏ hiện ra đến đó.
Cũng với tấm gương đại viên cảnh trí này, chúng sanh thì lạc vào các hình bóng ảnh hiện và lạc vào sanh tử. Còn với Bồ tát, biết các bóng chỉ là ảnh hiện trên mặt gương nên nhìn thấy tấm gương vì bản tánh của bóng là gương: “Sắc tức là Không, Không tức là sắc.”
“Như gương tròn sáng có người phước lớn treo lên chỗ rất cao, không bị lay động, có vô lượng chúng sanh qua lại, nơi đó họ quán sát đức tự thân thêm hay mất vì muốn giữ gìn đức, bỏ đi những thất đức.
Như thế, Như Lai treo đại viên cảnh trí ở pháp giới thanh tịnh không gián đoạn, không chút lay động, vì muốn khiến vô lượng vô số chúng sanh quán sát cái nhiễm cái tịnh, để giữ gìn cái tịnh, xả bỏ các nhiễm vậy.”
Tấm gương đại viên cảnh trí được treo ở pháp giới thanh tịnh, tức ở pháp giới thể tánh trí, không động, không gián đoạn, để chúng sanh và các Bồ tát trong mười địa soi thấy cái tịnh (Pháp thân) để giữ gìn và cái phiền não nhiễm ô để xả bỏ.
“Khiến cho  vô lượng vô số chúng sanh quán sát cái nhiễm để xả bỏ, cái tịnh để giữ gìn” nghĩa là tấm gương đại viên cảnh trí luôn luôn ở trước mắt mỗi người. Tấm gương ấy chính là bản tâm, khuôn mặt xưa nay của mỗi người, chỉ vì các nhiễm mà tạm thời bị che khuất.
“Lại như gương tròn đầy cực thiện sáng sạch, ánh sáng không vết dơ chiếu soi khắp. Như thế, Như Lai đại viên cảnh trí ở nơi Phật trí vĩnh viễn lìa dứt tất cả vết dơ phiền não chướng và sở tri chướng, cực thiện sáng sạch làm định y chỉ, do được nhiếp trì nên sáng soi thanh tịnh không vết dơ, làm sự lợi lạc cho tất cả chúng sanh, ánh sáng soi khắp.” 
Đại viên cảnh trí cực thiện sáng sạch, vĩnh viễn lìa dứt tất cả vết dơ phiền não chướng và sở tri chướng; đây là giải thoát cho mình, tự giác. Ánh sáng soi khắp làm lợi lạc cho tất cả chúng sanh là làm lợi cho người, giác tha.
Thực hành đại viên cảnh trí là thiền định (Chỉ), thiền quán (Quán) và Chỉ - Quán đồng thời để thấy và an trụ trong tấm gương ấy. Đại viên cảnh trí vốn sạch, không vết dơ, đây là phương diện Định hay Chỉ, hay Tịch của tấm gương. Ánh sáng soi khắp là phương diện Quán hay Chiếu của tấm gương.An trụ trong tấm gương đại viên cảnh trí thì những vết dơ phiền não chướng và sở tri chướng dần dần được xóa bỏ, tiêu tan…

“Lại như gương tròn đầy làm chỗ nương duyên cho các bản chất, thảy thảy bóng hình tướng mạo sanh khởi. Cũng như thế Như Lai đại viên cảnh trí, trong tất cả thời làm chỗ nương cho các duyên nên thảy thảy bóng trí (trí ảnh) tướng mạo sanh khởi.”
Tấm gương đại viên cảnh trí không phải là không có bóng nào. Nó in tất cả bóng hình tướng mạo của ba cõi, nhưng tất cả chỉ là bóng trong tấm gương trí được nhìn bởi trí (trí ảnh). Với các bóng trí ấy, chúng sanh chấp là có thật bèn tạo ra sanh tử có thật. Bậc trí thì thấy chúng chỉ là các bóng trong mặt gương đại viên cảnh trívô tự tánhkhông thậtnhư huyễn như mộng, như có như không.
Thấy mọi hình tướng của thế gian là những bóng trong cùng một tấm gương, bóng không lìa gương, bóng chính là gương, đó là thấy đại viên cảnh tríQuán chiếu sâu vào dù chỉ một bóng trong gương, người ta sẽ tìm thấy bóng chính là tấm gương đại viên cảnh trí
“Như trên gương tròn đầy chẳng phải một hay nhiều bóng hình khởi hiện, nhưng trên gương không thật có các bóng hình, vì gương này không có động, không có tạo tác. Trên Như Lai đại viên cảnh trí cũng như vậy, chẳng phải một hay nhiều bóng hình khởi hiện. Nhưng trên đại viên cảnh trí không có các bóng hình, vì gương trí này không có động, không có tạo tác.”
Các bóng hình thật ra không có khởi sanh, khởi hiện, chúng là vô sanh, vô hiện, nghĩa là vô tướng. Vì sao thế? Vì tấm gương đại viên cảnh trí làm chỗ nương duyên cho các bóng hình, nhưng tấm gương ấy vốn vô duyênvô sanh và vô tướng nên các bóng cũng vô duyênvô sanh và vô tướng.
“Lại như gương tròn đầy cùng các bóng hình chẳng phải hợp, chẳng phải lìa, chẳng tụ tập, mà hiện các duyên kia. Như Lai đại viên cảnh trí cũng như vậy, cùng các bóng hình, chẳng phải hợp chẳng phải lìa, chẳng tụ tập mà chẳng tan mất vậy.”
Các bóng hình chẳng thể in cứng cố định vào tấm gương nên nói là chẳng phải hợp, chẳng phải lìa, chẳng tụ tập mà chẳng tan mất. Chẳng tụ tập là vô tự tánh, chẳng tan mất mà có xuất hiện.
Thấy các bóng như có xuất hiện, nhưng không thật, như hoa đốm giữa hư không, như trăng trong nước, như sóng nắng mà tưởng là nước…tức là thấy tấm gương đại viên cảnh trí.
Cho nên, thiền định thiền quán thấy các hình bóng trong gương chẳng ra ngoài gương, xuất hiện trên nền tảng là tấm gương bèn thấy được tấm gương. 
“Lại như gương tròn đầy sáng khắp tất cả chỗ của mặt gương, làm chỗ nương duyên cho các bóng hình khởi hiện khắp. Như Lai đại viên cảnh trí cũng như vậy, sáng soi chẳng dứt vô lượng các hạnh thiện, làm chỗ nương duyên cho các bóng trí khởi hiện khắp.
Nghĩa là các bóng hình trí của Thanh Văn thừa, các bóng hình trí của Độc Giác  thừa, các bóng hình trí của vô lượng Đại thừa. Vì muốn khiến cho các bậc Thanh Văn thừa nương vào Thanh Văn thừa mà lìa thoát, bậc Độc Giác do nương vào Độc Giác thừa mà lìa thoát, bậc Đại thừa nương vào vô lượng thừa mà lìa thoát.”
Tấm gương đại viên cảnh trí tròn đầy sáng khắp  tất cả chỗ của mặt gương làm chỗ nương duyên cho các bóng hình trí của các hạnh thiện, trí huệ và công đức của cả ba thừa khởi hiện và giữ gìn khiến cho các chúng sanh và các bậc thánh của ba thừa được lợi lạc
Tấm gương đại viên cảnh trí là nền tảng cho sự thực hành của nhân thừaThanh Văn thừaĐộc Giác thừa và Đại thừa và cũng là con đường cho cả bốn thừa ấy.
“Như trong gương tròn đầy có bóng lớn, đó là bóng đất lớn, núi lớn, cây lớn, dinh thự lớn mà gương này chẳng đồng đẳng với các số lượng kia. Trên Như Lai đại viên cảnh trí cũng như vậy, có các bóng trí từ Cực Hỷ địa đến Phật địa cùng với tất cả bóng trí các pháp thế gian và xuất thế gian, mà đại viên cảnh trí chẳng phải các phần lượng kia.”
Trong đại viên cảnh trí có đủ các pháp thế gian và xuất thế gian, có đủ sanh tử và Niết bàn. Tấm gương trí in bóng các địa từ Sơ địa đến Phật địa mà tấm gương ấy chẳng phải bị giới hạn trong phần lượng mỗi địa. Tất cả các địa đều nằm trong tấm gương nghĩa là tất cả các địa đều cùng một bản tánh là tấm gương. Do đó phần lượng Sơ địa, Nhị địa cũng là tấm gương mà phần lượng Thất địaBát địa cũng là tấm gương. Chính tấm gương đại viên cảnh trí giải quyết cho vấn đề Đốn và Tiệm trong một số tông phái Phật giáo.
Con đường từ địa này qua địa khác nằm trong tấm gương nên muốn tìm địa nào hãy tìm trong tấm gương.
“Lại như gương tròn đầy chẳng phải chỗ bóng hình của các chất chướng ngại khởi duyên. Như Lai đại viên cảnh trí cũng như vậy, chẳng phải chỗ khởi duyên bóng trí cho các bạn xấu ác nhiếp người nghe tà pháp làm chướng ngại chúng sanh, vì đó chẳng phải là pháp khí vậy.”
Các chất chướng ngại là các chất làm ngăn trở tính chất tốt đẹp, sáng sạch, thông suốt của gương. Bản tánh của đại viên cảnh trí là “cực thiện, sáng sạch” nên chẳng chứa chấp các tà pháp chướng ngại. Thế nên mục đích của hành giả là đạt đến tấm gương cực thiện cực sáng sạch này, khi ấy con ngườithế giới phản chiếu vào trong gương cũng thành cực thiện, cực sáng sạch.
“Lại như gương tròn đầy chẳng phải chỗ bóng hình các chất tối tăm khởi duyên. Như Lai đại viên cảnh trí cũng như vậy, chẳng phải chỗ bóng trí của chúng sanh ngu muội thích xấu ác khởi duyên, vì chẳng phải là pháp khí vậy.”
Tấm gương đại viên cảnh trí chẳng phải chỗ cho sự xấu ác khởi duyên, vì ánh sáng không khởi duyên cho các chất tối tăm. Ngược lại, vì tấm gương ấy cực thiện, cực sáng sạch, cho nên bất cứ ai làm những “hạnh thiện”, sáng tỏtrong sạch thì sẽ được tấm gương huân tập nhiếp giữ và do đó dần dần đi vào tấm gương.
“Lại như gương tròn đầy chẳng phải chỗ bóng hình các chất xa lạ (viễn chất) khởi duyên. Như Lai đại viên cảnh trí cũng như vậy, chẳng phải  chỗ bóng trí của nghiệp bất tịnh chứa chấp của chúng sanh chẳng tin khởi duyên, vì chẳng phải là pháp khí vậy.”
Các chất xa lạ là những cái khác với bản tánh của gương trống không, sáng tỏ và diệu dụng phản ánh. Chúng là những hình tướng cứng đặc, che tối, đi ngược lại bản tánh của tấm gương. Chúng là các độc tham, sân, si, kiêu mạnnghi ngờ, đố kỵ… Thế nên loại chúng ra khỏi tâm thì đại viên cảnh trí thanh tịnh và sáng tỏ liền hiển hiện ngay trước mắt.
Ở trên là mười tính cách của đại viên cảnh trí theo Kinh Thập Địa. Đó cũng là mười cách tiếp cận với tấm gương đại viên cảnh trí. Mỗi cách tiếp cận ấy sẽ cho phép chúng ta thấy trực tiếp tấm gương sáng ấy, loại bỏ những phiền não chướng và sở tri chướngcho đến lúc bản tâm mình là đại viên cảnh trí của Như Lai
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 153)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 230)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 257)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 289)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 358)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 564)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 630)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 571)
Tóm tắt: Phật giáo là tôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 634)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 563)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 500)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 563)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 638)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 653)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 745)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 565)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 465)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 548)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 622)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 552)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 560)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 663)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 679)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 658)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 726)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 766)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 737)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 928)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 786)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1318)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 871)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1032)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 798)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1018)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 961)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 931)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1073)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1325)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1680)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 925)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1099)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 920)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 786)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 908)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 947)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1359)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1106)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1141)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 896)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1033)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1469)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1358)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1348)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 969)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1349)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1255)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1176)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1215)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1580)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant