Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

22. Kể từ khi Phật giáo VN đến Đức

17 Tháng Sáu 201400:03(Xem: 6088)
22. Kể từ khi Phật giáo VN đến Đức
Khảo luận nhân dịp kỷ niệm 50 năm
xuất gia của Hòa Thượng Thích Như Điển.
Olaf Beuchling - Văn Công Tuấn Nguyên Đạo dịch

I.

Trong khoảng cuối phần ba của thế kỷ thứ 17 – niên biểu chưa được xác định chính xác, có tài liệu ghi là năm 1677 – có một tu sĩ từ phía đông của tỉnh Quảng Đông Trung Hoa lưu lạc đến miền trung nước Việt Nam sau một chuyến hải hành. Vị tu sĩ ấy có tên là Yuan Shao, ngày nay người ta biết đến Ngài qua tên bằng âm Hán Việt là Nguyên Thiều (1648-1728). Vị tu sĩ này đã thế phát xuất gia từ năm Ngài 19 tuổi với Tổ sư Bổn Quả Khoáng Viên. Ngài là đệ tử đời thứ 33 của Tông phái Linji-zōng hay Lin-Chi tsung (Lâm Tế Tông), là một trong Thiền phái lớn nhất tại Trung Hoa. Có thể Ngài Nguyên Thiều là một trong nhóm những người Trung Hoa đã chạy lánh nạn Mãn Châu từ khi Minh triều bắt đầu suy sụp. Cũng có thể Ngài là điển hình cho một mối quan hệ kinh tế và văn hóa rất khắng khít giữa Trung Hoa và Việt Nam lúc bấy giờ. Nhưng dù là người tỵ nạn hay nhà truyền giáo, Ngài đã đặt chân đến Việt Nam như một khách lạ. Nước Việt Nam lúc đó cũng trong giai đoạn đất nước bị chia đôi. Trong thế kỷ thứ 17 có hai thế lực tranh giành và bành trướng quyền bính, có sự hỗ trợ đắc lực từ châu Âu. Ở phía bắc là lãnh địa của chúa Trịnh, phần đất phía nam và miền trung đặt dưới quyền cai trị độc lập của chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn Phúc Chu (1672-1725) nghe danh Ngài Nguyên Thiều nên đã cung thỉnh Ngài về Chùa Quốc Ân ở Huế. Huế lúc ấytrung tâm quyền lực của chúa Nguyễn. Từ đó Lâm Tế Tông càng ngày càng phát triển, có thể nói là Tông phái mạnh nhất của Phật Giáo Việt Nam.

Có một sự trùng hợp thật ngẫu nhiên. Đúng 300 năm sau Lâm Tế Tông cũng là Tông phái Phật Giáo Việt Nam đầu tiên do Hòa Thượng Như Điển mang truyền đến nước Đức. Giống như Tổ Nguyên Thiều ngày xưa, Hòa Thượng Như Điển cũng là một khách lạ đặt chân đến Đức trong tình huống vừa bỏ lại sau lưng một quê hương bị tàn phá nhiễu nhương vì chiến tranh. Và cũng như tại Việt Nam, Lâm Tế Tông cũng là một Tông phái Phật Giáo lớn nhất tại Đức.

II.

Vào giữa thập niên 70 của thế kỷ thứ 20 hàng loạt những sự kiện chính trị ở Đông Nam Á đã là những tiêu đề nóng bỏng trên toàn thế giới: chỉ trong vòng vài tháng toàn khối thuộc địa cũ của Pháp ở Đông Dương là Lào, Cam Bốt và Việt Nam đã rơi vào tay Cộng Sản. Những năm tiếp theo đó dấy lên một phong trào cứu người vượt biển tỵ nạn, làn sóng mà Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc UNHCR đánh giá là lớn nhất, tốn kém nhất và dai dẵng nhất. Hàng trăm ngàn người đã vượt biên bỏ nước ra đi bằng đường bộ hay đường biển qua ngõ biển Đông để đến những nước láng giềng. Hầu hết những người tỵ nạn ấy là người Việt Nam. Họ đã phải rời bỏ quê hương để tránh thoát những đàn áp chính trị, ví dụ như những chiến dịch cải tạo tư tưởng, cải tạo tư sản mại bản, tước bỏ quyền tư hữu và bắt giam trong các trại cải tạo. Họ bỏ nước ra đi vì những khó khăn kinh tế tạo ra do các sai lầm nghiêm trọng của các quyết định dựa theo kế hoạch kinh tế của nhà nước, nhưng đồng thời cũng do những cuộc chiến tranh biên giới với Campuchia và Trung Quốc.

Giữa những năm 1975 và 1979, theo công bố của UNHCR, đã có 311.429 người Việt Nam vượt biên bằng đường thủy đầu tiên đến những nước Đông Nam Á khác như Mã Lai, Hồng Kông và Nam Dương. Thêm vào đó cũng đã có 14.666 người Việt Nam đi bằng đường bộ đến Thái Lan. Rất nhiều người đã phải bỏ mạng trên bước đường vượt biển: họ đã bị bọn cướp biển hãm hại, bị chết đuối trong những cơn bão biển hay chết khát giữa đại dương. Hoàn cảnh và số phận của bao nhiêu con người trên chuyến tàu Hải Hồng đã đánh động dư luận toàn thế giới. Chính quyền nước Mã Lai đã từ chối không cho chuyến tàu Hải Hồng nhập cảnh, đây là một chiếc tàu hàng chở quá tải chứa 2.500 con người vô vọng sau một cuộc phiêu lưu dai dẳng cả mấy tuần lễ. Cuộc khủng hoảng về nhân đạo này đã là một thách thức cho nhân loại toàn thế giới. Thông qua những cố gắng đàm phán ngoại giao và một Hội nghị Quốc tế vào các ngày 20 và 21 tháng bảy năm 1979 tại Genneva đã quy định trách nhiệm cho cả Việt Namcộng đồng quốc tế. Chính phủ Việt Nam qua đó đã đồng ý một chương trình Ra đi có Trật tự (ODP), cho phép xuất ngoại đoàn tụ gia đình. Các quốc gia khối ASEAN cũng đã đồng ý cho người tỵ nạn Việt Nam tạm nhập cảnh và tạm cư trong các trại tỵ nạn quá cảnh của UNHCR. Hàng loạt những nước Tây phương hứa sẽ tiếp nhận và tài trợ các chương trình nhận người tỵ nạn Việt Nam.

Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ đã thu nhận hơn phân nửa số người Việt Tỵ Nạn. Tiếp theo đó là các nước Pháp, Gia Nã Đại, Úc và Cộng Hòa Liên Bang Đức. Cho đến bây giờ người Việt Nam vẫn sống đông đúc tại năm quốc gia này, họ vẫn là những cộng đồng lớn nhất ngoài khu vực châu Á.

Biểu đồ: Mười quốc gia có số người Việt ly hương đông nhất

Hoa Kỳ

1.548.449

Cam Bốt

735.085

Pháp

kh. 300.000

Trung Quốc

kh. 280.000

Đài Loan

190.000

Gia Nã Đại

180.125

Úc Đại Lợi

173.663

Đức

kh. 140.000

Thái Lan

119.000

Nam Hàn

90.931

kh.= khoảng

Nguồn: Olaf Beuchling & Tuan Van Cong (2013), tr. 44 và tr. 165

Cộng Hòa Liên Bang Đức là quốc gia thu nhận người Việt Nam tỵ nạn ngay từ giai đoạn đầu này. Đầu tiên nước Đức cam kết tiếp nhận 1.000 người vào cuối năm 1975, nhưng sau đó con số ấy cứ tăng dần đến 40.000 người. Cho đến những năm 1980, những người tỵ nạn từ Việt Nam dù với lý do chính trị hay nhân đạo đều được chính phủ Đức công nhận quyền tỵ nạn. Những bài tường thuật về những chuyến vượt biên hãi hùng khiếp đảm của thuyền nhân Việt Nam qua giới truyền thông báo chí đã đánh động đến dư luận thế giới. Tuy nhiên trong con số 40.000 này thật ra chỉ là một nhóm của những thuyền nhân tỵ nạn Việt Nam. Số còn lại là số đoàn tụ gia đình hay số hoàn thành thủ tục tỵ nạn và được Đức tiếp nhận sau.

Vào ngày 3 tháng 12 năm 1978, Ông Ernst Albrecht, Thống Đốc Tiểu Bang Niedersachsen, đã chỉ thị cho tiếp nhận 163 thuyền nhân tỵ nạn Việt Nam đầu tiên và đưa đến tạm trú ở trại tỵ nạn Friedland ở phía nam tiểu bang Niedersachsen của ông. Những người này là những thuyền nhân trên chuyến tàu Hải Hồng đang đậu nhiều tuần ngoài khơi bờ biển Mã Lai. Trại tỵ nạn Friedland gần Göttingen hiện vẫn còn hoạt động cho đến hôm nay. Một phần của Trại đã biến thành Bảo Tàng Viện về Lịch sử những cuộc Di dân và Tỵ nạn. Vào tháng 9 năm 2013 vừa qua, cá nhân tôi có được mời đến đây để thuyết trình về đề tài: Việc tiếp nhận Tỵ nạn Việt Nam vào cuối những năm 1970 và đầu những năm 1980.

Theo gương của tiểu bang Niedersachsen, thành phố tự trị Hamburg cũng bắt tay tiếp nhận người tỵ nạn từ Đông Nam Á. Tờ tuần báo „Die Zeit“ đã vận độngquyên góp từ các nhân vật tiếng tăm và cả những thường dân Hamburg, thuyết phục chính quyền thành phố tự trị Hamburg thu nhận 277 người từ trại tỵ nạn Pulau Bidong của Mã Lai. Thành phố Hamburg là một thành phố có một ý nghĩa đặc biệt đối với người tỵ nạn vì đó chính là „hải cảng nhà“ của con tàu Cap Anamur. Con tàu Cap Anamur là một tàu cứu hộ đã vớt người vượt biên trên biển Đông, hoàn toàn do tiền quyên góp của dân Đức, bắt đầu hoạt động từ mùa hè năm 1979 và di chuyển trên vùng biển phía nam Trung Quốc để cứu vớt và chăm sóc thuyền nhân tỵ nạn vượt biên. Hiện nay, tại một địa điểm khá trang trọng tại hải cảng này, người ta thấy có một tấm biển tưởng niệm, qua đó những người Việt Nam ghi lời cảm ơn con tàu Cap Anamur và nhân dân Đức đã cứu vớt 11.300 thuyền nhân và tưởng niệm những đồng hương đã bỏ mạng trên đường vượt biên.

Để nhanh chóng dễ dàng hơn cho thủ tục tiếp nhận tỵ nạn từ Đông Nam Á những tổ chức hiệp hội quần chúng, giới truyền thông và chính quyền đã cùng dẫn tới một thỏa hiệp. Vào ngày 01.08.1980 chính quyền đã cho ra đời một „Đạo luật về các biện pháp thực hiện trong bối cảnh giúp đỡ nhân đạo cho những người đã được tỵ nạn“. Đây là một khung pháp lý thống nhất trên toàn quốc cho việc tiếp nhận và hội nhập của người tỵ nạn từ Đông Nam Á.

III.

Hòa Thượng Thích Như Điển đến Đức đầu tiên vào tháng tư năm 1977 theo lời mời của một người bạn của Thầy. Thầy vừa đến từ Nhật Bản, nơi mà bắt đầu từ năm 1972 Thầy đã đến du học tại đại học Teikyo và Rissho và đã tốt nghiệp đại học. Sau năm 1975, đứng trước những biến động chính trị ở quê nhà Thầy quyết định là chưa quay trở về Việt Nam. Trong mấy tháng đầu Thầy tạm sống ở Kiel, đi học tiếng Đức và cuối tuần thì đi các nơi trên nước Đức để thăm viếng đồng bào Phật tử. Người tỵ nạn Việt Nam đang bắt đầu thảo luận về tình hình chính trị ở quê nhà cũng như nhu cầu của người Việt ở châu Âu. Những thuyền nhân Việt Nam cũng mang theo những tin tức về việc đàn áp tôn giáo của nhà nước. Các Phật tử ở Đức yêu cầu Thầy nên ở lại Đức thay vì quay lại Nhật để tiếp tục học chương trình Tiến sĩ. Trong một tác phẩm viết vào năm 1986, Thầy đã mô tả tình trạng ấy như sau:

„… Chúng tôi có một số suy nghĩ và đồng bào tại Đức cũng có một số yêu cầu như sau: (họ) yêu cầu tôi ở lại Đức, thay vì trở về Nhật. Vì ở Đức chưa có một lãnh đạo tinh thần nào cả, mà ở Nhật thì đang có nhiều Thầy […]

Sau khi yêu cầu tôi ở lại – một thời gian suy nghĩ đắn đo khá lâu – tôi đã chấp nhận không về lại Nhật mà ở lại Đức để giúp đỡ đồng bào Phật tử về lãnh vực tinh thần. Mọi người tỏ ra hoan hỷyêu cầu tôi thành lập Niệm Phật Đường cũng như Hội Phật Tử tại Tây Đức“ (Thích Như Điển, 1986, tr. 60f).

Ngay sau đó Thầy đã ghi danh vào lục cá nguyệt mùa hè năm 1978 theo học ngành giáo dục của Đại học Sư Phạm Hannover. Vào tháng hai năm 1978 Thầy dọn đến ở hẳn tại thành phố thủ đô của tiểu bang này. Thầy lập Niệm Phật Đường ngay trong căn hộ nhỏ mà Thầy đang ở, tiền chi phí do những cúng dường đóng góp của những Phật tử Việt Nam. Lễ An Vị Phật Niệm Phật Đường Viên Giác ở địa chỉ Kestnerstraße 37 Hannover đã được tổ chức vào ngày 02.04.1978 với sự chứng minh của Thượng Tọa Thích Minh Tâm (bây giờ là Cố Hòa Thượng) từ Pháp đến. Tại đây viên đá đặt nền tảng cho Phật Giáo Việt Nam ở Đức vừa được đặt xuống.

Vào cuối năm 1978 „Hội Kiều Bào và Sinh Viên Phật tử Việt Nam tại Cộng Hòa Liên Bang Đức“ được ra đời. Hội cho xuất bản tờ báo Viên Giác đầu tiên vào năm 1979, lúc ấy mang khổ DINA 5. Đến năm 1980 thì „Chi Bộ Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tại Cộng Hòa Liên Bang Đức“ được thành lập. Đến đầu năm 1981 Niệm Phật Đường được dời về cơ sở mới, cơ sở này trước đây là một cơ sở sản xuất chế biến kim loại cũ ở địa chỉ Eichelkamp số nhà 35 và được đổi tên là Chùa Viên Giác. Cơ sở này nằm kế sát ngôi Chùa Viên Giác hiện nay.

Tất cả những chi tiết của sự kiện này trong vòng thập kỷ đầu tiên của Phật Giáo Việt Nam tại Cộng Hòa Liên Bang Đức được ghi rõ trong cuốn sách song ngữ Đức-Việt Hình Ảnh Sinh Hoạt 10 năm Phật Giáo Việt Nam tại Tây Đức / Bilder von den zehnjährigen Aktivitäten des vietnamesischen Buddhismus in der Bundesrepublik Deutschland, phụ lục có rất nhiều hình ảnh (Thích Như Điển, 1988). Dần dần trên cả nước Đức những Chi Hội Phật Tử, những ngôi Tịnh Thất, Niệm Phật Đường được ra đời. Đến năm 1984 Ni Sư Thích Nữ Diệu Tâm (bây giờ là Sư Bà) đặt chân đến Hamburg. Thành phố Hamburg là nơi có đông đúc người tỵ nạn Việt Nam, nên việc kiến lập một ngôi Già Lam, một cơ sở tâm linh ở đây là việc rất cần thiết. Tại München, vào tháng giêng năm 1985 ngôi Chùa Tâm Giác cũng đã được khánh thành, đã có 150 quan khách và Phật tử đến tham dự, trong đó có ông Tiến sĩ Peter Gauweiler, một chính trị gia đảng CSU. Nhưng phải chờ đến nhiều năm sau đó mới có tu sĩ đến tu tậplãnh đạo hoạt động của Chùa. Ở Bá Linh, đầu tiên Thầy Thích Như Điển thường đến hướng dẫn tu tập cho những đồng bào Phật tử và sinh viên ở đây. Tại địa phương này Phật tử Việt Nam có những mối quan hệ mật thiết với một cơ sở Phật Giáo đã nổi tiếng mang tên là „Phật Giáo Đường – Buddhistisches Haus“ ở Berlin-Frohnau và với những Phật tử Đức của „Hội Phật Giáo Berlin - Buddhistische Gesellschaft Berlin e.V.“. Vào năm 1981 Chi Hội Phật Tử Bá Linh được thành lập và bắt đầu từ năm 1983 các Phật tử ở Bá Linh đã lên kế hoạch kiến lập một ngôi Già lam ở địa phương này. Đến năm 1987 thì ngôi chùa mang tên Linh Thứu được khánh thành. Trên đà phát triển đó, ở những thành phố khác như Bremen, Frankfurt, Freiburg, Münster, Fürth-Erlangen, Wiesbaden, Rottershausen, Barntrup hay Norddeich đã có hàng loạt những Chi Hội Phật Tử đã nối đuôi nhau ra đời, những Phật tử quay quần cùng nhau tu tập qua những buổi Lễ Phật định kỳ. Người ta cũng thấy, đã bắt đầu có những chương trình văn hóa văn nghệ, thanh thiếu niên Phật tử. Cũng có khi có những sinh hoạt ở một địa phương được vài năm rồi tạm ngưng, sau đó họ dời đến một cơ sở khác và thành lập ở đấy một ngôi Tịnh Thất hay một Niệm Phật Đường.

IV.

Quang cảnh của Phật Giáo tại nước Đức nói chung vào những năm cuối 70 đầu 80 vẫn còn trong phạm vi rất hạn chế, tuy nhiên đó chính là một bước khởi đầu cho việc phát triển và mở ra một triển vọng mới. Phật Giáo tại trú xứ này có một điểm khá đặc thù: trong những giai đoạn đầu Phật Giáo chỉ phổ biến đóng khung trong giới trí thức hay những người có địa vị xã hội, dần dần giáo lý Phật Đà mới phổ biến ra cho cả đại chúng. Song song vào đó, càng ngày người ta bắt đầu quan tâm hơn trong việc thực hành, tu tập giáo lý Phật Đà, đặc biệt là trong lãnh vực thiền định, khác hẳn với việc chỉ thuần túy tập trung vào lãnh vực nghiên cứu, triết họclý thuyết như trước đây. Hơn thế nữa, quang cảnh văn hóa Phật Giáo cũng đã đổi khác: số di dân gốc từ Á Châu đến nước Đức ngày càng đông, họ mang theo truyền thống Phật Giáo và tự tổ chức những hoạt động Phật sự (như trường hợp Phật Giáo Việt Nam) vào đầu những năm 1980.

Nhà thờ Cơ ĐốcTin Lành, cũng như các giới truyền thông đã bắt đầu ý thức về sự lớn mạnh của Phật Giáo tại Đức. Trên một bình diện, các nhóm Phật Giáo này bị hoài nghixem như là những đối thủ trong cuộc cạnh tranh tôn giáo. Ta phải hiểu thêm rằng, vào những năm 1970 mối lo ngại về những tác động phá hoại của những „Tà đạo - Sekten“ hoặc nhóm „Tôn giáo Tuổi trẻ - Jugendreligionen“ rất phổ biến ở nước Đức. Có những nhóm tương đối nhỏ xuất phát từ Ấn Độ nhưng đã làm cho giới truyền thông chấn động (chính xác là nhóm neohinduistisch – Ấn Giáo cải cách), những nhóm này đã làm cho Phật Giáo cũng bị hoài nghi lây. Bởi thế ta phải xem là những mối lo ngại này không phải hoàn toàn vô căn cứ, cộng đồng Phật Giáo Việt Nam cũng không thoát khỏi ngoại lệ đó.

Đứng trên một bình diện khác, các phương pháp Thiền định đã dần dần được đưa vào áp dụng trong những nhà thờ Cơ Đốc Giáo, làm phong phú thêm cho các hoạt động của họ. Những nhân vật nổi tiếng như Linh mục Dòng Tên người Đức và là Thiền Sư tên là Hugo Makibi Enomiya-Lassalle (1898-1990) hoặc Linh Mục tu dòng Benedictine và là Thiền sư tên là Willigis Hunter (sinh 1925) là hai ví dụ cho sự hội nhập của Thiền học Phật Giáo trong Cơ Đốc Giáo thực dụng. Tuy nhiên, những cải cách này cũng đã từng bị phê bình chỉ trích rất gắt gao. Vào năm 2002 Nhà Thờ Cơ Đốc đã công bố thu hồi chức Linh Mục của ông Willigis Jäger và cấm ông không được giảng đạo tại nhà thờ (có điều bất ngờ là sau đó ông Jäger được Thiền Sư Jing Hui - 净慧 Tịnh Huệ - người Trung Hoa thu nhận làm đệ tử và vào năm 2009 được công nhậnThiền Sư của Lâm Tế Tông, đời thứ 45).

V.

Trong năm 1989 có hai sự kiện tạo những bước ngoặc quan trọng cho tình hình chung ở nước Đức và cả cho sự phát triển của Phật Giáo Việt Nam tại đây. Sự sụp đổ của bức tường Bá Linh vào năm 1989 cũng như việc thống nhất nước Đức vào năm 1990 (một cuộc thống nhất chỉ bằng những biện pháp hòa bình chứ không như ở Việt Nam) đã làm gia tăng nhanh số lượng người tỵ nạn đến Đức gốc từ Việt Nam. Căn bản của sự phát triển nhanh về nhân số này là do con số 60.000 người Việt Nam đã sinh sống tại Cộng Hòa Dân Chủ Đức trước đây, họ là những du học sinh hay là những thợ khách tại đấy. Sự giao lưu tiếp xúc giữa hai nhóm người Việt Nam này mới đầu thật hoàn toàn không đơn giản chút nào – một đằng là những người từ miền nam Việt Nam tỵ nạn sống tại những tiểu bang tây Đức từ trước, đằng kia là những khách thợ từ miền bắc Việt Nam, trong thực tế họ là những người được ưu đãi trong xã hội của chính quyền Bắc Việt. Tệ hại hơn, có những nhóm đến từ những nước xã hội chủ nghĩa trước đây, những người này đã đến Đức và hoạt động thương mại bất hợp pháp, đấy là một vấn đề trầm trọng của những năm 1990. Hàng chục ngàn người Việt Nam, những người Việt Nam tỵ nạn lương thiện làm ăn sinh sống đã bị những tiếng xấu này ảnh hưởng lây. Hoàn cảnh này giống như ý câu tục ngữ Việt Nam: tốt danh hơn lành áo. Nhưng may mắn thay, vấn đề này đã giảm hẳn trong những năm gần đây.

Sự kiện tiếp theo đó là công trình xây dựng Ngôi Già lam Viên Giác vào năm 1989. Thầy Thích Như Điển đã viết một tác phẩm mô tả chi tiết những giai đoạn và những khó khăn cho dự án này, sách đã xuất bản vào năm 1995, do đó không cần phải lặp lại ở đây. Vào tháng 12 năm 1991 Chùa bắt đầu dọn về cơ sở mới này. Nhưng phải một năm rưỡi sau, vào tháng 8 năm 1993, lễ Khánh Thành Chùa Viên Giác mới được tổ chức trọng thể với sự tham dự của nhiều chức sắc Phật Giáo trong và ngoài nước. Chi phí xây dựng tốn đến 9 triệu Đức Mã, Chùa đã có được qua những hình thức cúng dường tịnh tài và cho mượn hội thiện không lấy lời. Thêm vào đó phải kể đến không biết bao nhiêu là những ngày công của bao nhiêu Phật tử đến làm công quả, họ đã xây dựng nên một cơ sở Phật Giáo to lớn nhất tại nước Đức; mãi cho đến ngày hôm nay, Chùa Viên Giác cũng vẫn còn là một trong những cơ sở Phật Giáo lớn nhất tại Âu châu. Tòa nhà chính có hai tầng này mang một diện tích là 815 mét vuông. Những xây dựng phụ chiếm một diện tích 666 mét vuông. Chánh điện Chùa có diện tích 450 mét vuông, có thể dung chứa 400 người đến hành lễ. Ngoài ra còn có một nhà bếp lớn, một hội trường, Tổ đường, Thiền đường, Thư viện và những cơ sở phòng ốc khác. Ngay sau khi vừa dọn vào, đã có một vài sự kiện mang tầm vóc quốc tế xảy ra ở đây. Chính Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng đã nhiều lần đến thăm viếng nơi đây (lần mới nhất là vào năm 2013), Tổ chức Tăng Già Thế Giới (World Buddhist Sangha Council - WBSC) cũng đã tổ chức đại hội tại đây vào năm 1991 với sự tham dự của Chư Tôn Đức Tăng Ni từ 16 quốc gia trên thế giới. Năm 1995 đại hội của Tăng Già Việt Nam ở hải ngoại cũng tại đây. Vào năm 2011, những hành trạngcông hạnh của Hòa Thượng Thích Như Điển đã được Chính phủ và Giáo Hội Phật Giáo Tích Lan Sri Lanka Ramanna Nikaya (một trong ba giáo hội chính thống của Tích Lan) vinh danh. Chính Thủ Tướng Tích Lan đã trao tặng Hòa Thượng bằng danh dự về công cuộc truyền bá sâu rộng giáo lý Phật Đà ở Âu Châu.

VI.

Khởi đầu từ thành phố Hannover, Phật Giáo Việt Nam đã lan rộng ra trên toàn quốc. Ngoài cơ sở trung ương là Chùa Viên Giác, hiện nay đã có nhiều ngôi Chùa ở nhiều thành phố khác như Hamburg, Berlin, München, Frankfurt, Mönchengladbach, Aachen, Freiburg, Nürnberg. Ngôi tu viện Viên Đức ở Ravensburg là cơ sở do Hòa Thượng Như Điển thành lập. Bây giờ ở các tiểu bang miền đông Đức cũng có những ngôi Chùa của Phật Giáo Việt Nam, ví dụ như chùa Phước Nghiêm ở Leipzig, sau một thời gian tranh cải về pháp lý và chính trị bây giờ là ngôi Chùa Ni đầu tiên ở khu vực Đông Đức. Ở thành Phố Schmiedeberg thuộc tiểu bang Sachsen, Thượng Tọa Thích Hạnh Tấn (đệ tử của Hòa Thượng Như Điển, nguyên trụ trì Chùa Viên Giác nhiệm kỳ 2003-2007) đã thành lập Tu Viện Vô Lượng Thọ miên mật tu tập.

Ngoài ra cần nói thêm ở đây, ngoài những ngôi Chùa và Niệm Phật Đường thuộc dòng Lâm Tế, còn có những nhóm tu học theo giới Tiếp Hiện do vị tu sĩtác giả nổi tiếng thế giới, đó là Thiền Sư Nhất Hạnh (Lâm Tế Chánh Tông đời thứ 42) chủ xướng. Ngoài Trung Tâm Tu Học rất lớn ở Waldbröl (bắt đầu từ năm 2008) những Tăng Thân nói ở đây đa số là những nhóm tu học của những cư sĩ Phật tử, nói tiếng Đức và không có những cơ sở vật chất riêng.

VII.

Khi Thầy Thích Như Điển đặt chân đến Đức vào năm 1977, Phật Giáo ở Đức lúc ấy chỉ là một sự hiện diện còn rất mơ hồ. Hôm nay ta có thể nói, Phật Giáotôn giáo lớn thứ ba tại Đức, sau Cơ Đốc GiáoHồi Giáo, mặc dù cho đến bây giờ những số liệu về số lượng Phật tử ở Đức vẫn chưa được thống kê chính xác. Người ta tiên đoán là ở nước Đức có từ 270.000 đến 650.000 Phật tử. Con số dưới (270 ngàn) là con số do Liên Hội Phật Giáo tại Đức - DBU đưa ra với ghi chú là „chỉ ước tính rất sơ bộ“. Ở đây người ta cho rằng phân nửa những người Phật tử có nguồn gốc là những người nhập cư. Con số trên (650 ngàn) là con số do Hiệp Hội Bertelsmann-Stiftung qua chương trình thăm dò mang tên Religionsmonitor (Quan sát Tôn giáo). Con số này thông qua một cuộc thăm dòphỏng vấn dân chúng là họ tự cảm nhận họ thuộc về tôn giáo nào. Những câu trả lời sẽ được tính lên trên bình diện toàn quốc. Có nhiều bằng chứng cho thấy con số trên (650 ngàn) là con số gần sự thật hơn.

Một tính năng đặc biệt của Phật giáo tại Đức là sự đa dạng của các tông phái. Người ta có thể tìm thấy tại đây tất cả các cộng đồng Phật Giáo Nguyên Thủy, Đại thừaKim Cương thừa. Những tông phái phổ biến nhất ở đây, kế bên Phật giáo Việt NamPhật giáo Tây TạngPhật giáo Thiền tông Nhật Bản.

Những cộng đồng Phật Giáo di dân (gốc từ châu Á) và cộng đồng Phật Giáo bản xứ (người Đức) đối mặt với những thách thức khác nhau. Đối với những Phật tử di dân thì việc duy trì truyền thống văn hóa đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Điều ấy bao gồm cả việc duy trì ngôn ngữ mẹ đẻ cho các thế hệ trẻ. Qua đó họ có thể duy trì mối quan hệ với ông bà cha mẹ và những người thân ở quê nhà. Ngôn ngữ mẹ đẻ cũng chuyên chở những chân giá trị văn hóa và những khái niệm Phật học mà khó lòng có thể phiên dịch hết ý nghĩa sang ngôn ngữ Đức. Nhóm Phật tử người Đức thì tập trung vào việc truyền bá Phật Giáo cho người Tây phương và những ứng dụng vào cuộc sống hằng ngày. Trong rất nhiều năm cụm từ „Phật Giáo phi tôn giáo - säkulares Buddhismus“ cũng được nói đến rất nhiều và có vẻ như một khuynh hướng ngày càng trở nên quan trọng trong cảnh quan Phật Giáo. Người ta cố gắng xây dựng ra một cuộc tiếp cận thực dụng, dựa cơ sở trên căn bản của giáo lý và các phương pháp hành trì từ thời Phật Giáo Nguyên Thủy, gạt bỏ những quan điểm siêu nhiên hay tôn giáo, do những ảnh hưởng của những nền văn hóa tác động vào Phật Giáo.

Một sự khác biệt khác giữa Phật Giáo di dân và Phật Giáo bản xứ là cách tổ chức và hệ thống cấp bậc trong những tổ chức này. Đối với cộng đồng Phật Giáo Tây Phương thì vai trò của người tu sĩ không quan trọng như trong những tổ chức Phật Giáo Á Châu. Trong các Cộng đồng Phật Giáo Tích Lan, Việt Nam, Thái Lan ở tại Đức, chư Tôn Đức Tăng Ni luôn luôn đứng hàng đầu, mang trách nhiệm trao truyền giáo lý và các phương pháp hành trì đến Phật tử. Trong cộng đồng Phật Giáo Đức thì những cư sĩ Phật tử giữ luôn vai trò giảng dạy giáo lý. Nếu thiếu vị tu sĩ lãnh đạo trong cộng đồng Phật Giáo Á Châu là một khiếm khuyết lớn, còn đối với Phật Giáo Tây phương, theo cái nhìn của nhiều người thì không quan trọng lắm, có khi còn có ý nghĩabình đẳng.

Những sự khác biệt ấy (cũng còn có một vài đặc điểm nữa nhưng không đề cập ở đây) không hề mang ý nghĩa là những hình thái Phật Giáo ở Đức có tính chất „đích thực“ hoặc thậm chí „tốt hơn“. Quá trình lịch sử hình thành đa dạng từ những nhu cầu cá biệttình trạng sống hiện tại, cũng như những sự ảnh hưởng tác động văn hóa của họ rất đa dạng, hơn hẳn một hình thức đồng nhất trong Phật Giáo, có vẻ như đáp ứng được các đòi hỏi của con người. Sự khác biệt này không hề hàm chứa những mâu thuẫn trong cuộc hội ngộ giữa Phật Giáo Á Châu và Phật Giáo Đức. Không, hoàn toàn ngược lại: hiện nay có rất nhiều cuộc gặp gỡ hỗ trợ lẫn nhau và các đối thoại nội bộ giữa những Phật tử Đức và Phật tử Á châu, trong tinh thần tương thân tương trợ. Cá nhân chúng tôi, vì lý do nghiệp vụ, có quan hệ khắng khít với những Phật tử di dân đồng thời cũng có quan hệ chặt chẽ với những Phật tử Đức, tôi có thể phát biểu rằng, Phật Giáo Việt Nam đã tạo nên được tiếng tăm rất tốt đẹp trong cộng đồng Phật Giáo Đức trên cả nước Đức.

Ngày nay, Phật Giáo Việt Nam tại Đức đã xác định được một chỗ đứng quan trọng và sự hiện diện này được thừa nhận trong nếp sinh hoạt của tôn giáo nói chung tại Đức và quang cảnh của Phật Giáo nói riêng. Qua nhiều cuộc thảo luận với nhiều cộng đồng Phật Giáo, một lần nữa tôi nhận ra được sự nể phục của những cộng đồng Phật Giáo bạn đối với Phật Giáo Việt Nam. Không phải họ chỉ kính nể qua những khả năng tổ chức tài tình mà còn là sự cởi mở đối với các môn phái Phật Giáo khác. Theo tôi, sự cởi mở này chính là chiếc chìa khóa cho sự phát triển của Phật Giáo tại nước Đức trong tương lai. Ở một tầm nhìn nhất định, chúng ta phải thấy việc tôn trọng sự đa dạng của các Tông phái Phật Giáochính đáng – dù Phật tử Đức hay Phật tử lưu vong, dù là cộng đồng Phật tử ly hương hay những cộng đồng tổng hợp đa dạng, dù là Phật Giáo Nguyên Thủy hay Đại Thừa, dù tu sĩ hay cư sĩ. Trên một tầm nhìn khác, Phật Giáo tại Đức sẽ phải mang tính chất là một tổ chức tôn giáo chung thống nhất, nhất là trong thế đối tác với chính quyền Liên Bang Đức. Nhưng ở đây ta cũng cần xác định rõ rằng, đặc tính đa dạng trong Phật Giáo này đã có một giá trị lịch sử rất lớn và lâu đời, phải được tiếp tục duy trì và không thể để cho những áp lực bên ngoài (kể cả chính trị) chi phối đến được.


Tài Liệu Tham Khảo:

- Olaf Beuchling (2003): Vom Bootsflüchtling zum Bundesbürger. Migration, Integration und schulischer Erfolg in einer vietnamesischen Exilgemeinschaft. Münster.

- Olaf Beuchling & Tuan Van Cong (2013): Vom Mekong an die Elbe. Buddhistisches Klosterleben in der vietnamesischen Diaspora / Xuôi dòng Cửu Long đậu bến Elbe. Nếp Chùa Việt trên đất khách. Hamburg.

- Thích Như Điển (1986): Đời sống Tinh thần của Phật Tử Việt Nam tỵ nạn tại Ngoại quốc / Das geistige Leben der Buddhistischen Vietnam-Flüchtlinge im Ausland. Hannover.

- Thích Như Điển (1988): Hình Ảnh Sinh Hoạt 10 năm Phật Giáo Việt Nam tại Tây Đức / Bilder von den zehnjährigen Aktivitäten des vietnamesischen Buddhismus in der Bundesrepublik Deutschland. Hannover.

- Thích Như Điển (1995): Klosterpagode Viên Giác. Hannover.

- Thích Như Điển (1996): Phật GiáoCon người / Der Buddhismus und die Menschen. Hannover.

Vien Giac (2013): Chronik Vien Giac Pagode 1978-2013. Online unter: http://deutsch.viengiac.de/chronik-vien-giac-pagode-1978-2013/

Sơ lược về tác giả:

Tiến sĩ Olaf Beuchling (Pháp danh Thiện Trí) là nhà nghiên cứu xã hội học, tác giả. Ông giảng dạy ở nhiều đại học trong và ngoài nước, trong đó có thể kể là Trung Tâm Nghiên Cứu Phật Giáo Numata của Viện Đại Học Hamburg. Ông đã cùng với ông Văn Công Tuấn sáng tác tác phẩm song ngữ: Vom Mekong an die Elbe. Buddhistisches Klosterleben in der vietnamesischen Diaspora / Xuôi dòng Cửu Long đậu bến Elbe. Nếp Chùa Việt trên đất khách (Hamburg, Abera Verlag 2013).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8030)
Mỗi khi tâm niệm đến hành trạng Thiền sư Vạn Hạnh, chúng ta không thể không đề cập đến con ngườisự nghiệp Lý Công Uẩn.
(Xem: 35571)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 19706)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 11718)
Sư sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Ông Tổ năm đời của Sư làm quan Quản chu tượng coi thợ đóng thuyền cho triều đình.
(Xem: 23206)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13366)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 5853)
Nhiều người tu tập Phật Giáo cảm thấy hoang mang khi nghe nói có các vị thầy Phật Giáo không tuân thủ một số giới luật, chẳng hạn như uống rượu, sống chung với các thành viên khác trong tập thể tu hành
(Xem: 10629)
Miền Nam Ấn Độ trước đây, Có gia đình hào phú đầy uy danh, Hai con tư chất thông minh, Ca Chiên Diên với người anh của chàng...
(Xem: 10366)
Bảy vương tử dòng Thích Ca, Đợt đầu quyết chí xuất gia lần này, A Nan có mặt trong đây, Tuổi thời nhỏ nhất nhưng đầy tương lai...
(Xem: 10068)
A Na Luật được sinh ra, Ở trong vương tộc rất là nổi danh, Thật thà, hoạt bát, thông minh, Múa ca, âm nhạc quả tình tinh thông...
(Xem: 20876)
Ngài có lời đại nguyện rằng: Nếu Ngài chưa độ hết chúng sanh, thì Ngài không chứng quả Bồ Đề, và nếu sự thọ khổ trong địa ngục hãy còn, thì Ngài thề không chịu thành Phật.
(Xem: 6210)
Đức Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu.
(Xem: 6861)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa.
(Xem: 8901)
Tưởng nhớ đến một bậc Thầy khả kính của nhiều thế hệ Tăng Ni Việt Nam; Môn đồ pháp quyến thực hiện tập kỷ yếu này
(Xem: 6025)
Nhà vua xây tháp để thờ tám sợi tóc. Tháp ấy bây giờ là ngôi chùa vàng danh tiếng Shwedagon ở cựu thủ đô Yangon.
(Xem: 18164)
Hòa Thượng THÍCH MINH TÂM (1940-2013) - Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 6359)
Sau khi Ta diệt độ khoảng hơn một trăm năm sau, em bé vừa rồi cúng dàng nắm cát cho Ta, đời sau sẽ làm vua tại thành Ba-liên-Phất...
(Xem: 6739)
Một thời, đức Phật ngự tại vườn Lộc Uyển nước Ba La Nại, bấy giờ, đức Phật mới thành đạo chưa được bao lâu, khi đó Vua Ba Tư Nặc mới nối ngôi.
(Xem: 6561)
... Từ đó tôi hoài bảo một cái mộng: "làm sao, sau này mình sẽ đóng một cây thang giáo lý" (tức là bộ "Phật Học Phổ Thông", ngày hôm nay).
(Xem: 13026)
Chủ đề: 50 năm xuất giahành đạo của HT. Thích Như Điển
(Xem: 5879)
Trần Tung (còn gọi là Trần Quốc Tung) hiệu Tuệ Trung Thượng Sĩ, sinh năm Canh dần 1230, mất ngày 1 tháng 4 năm Tân Mão 1291, quê ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường
(Xem: 7898)
Ban Sưu tập tu viện Quảng Hương Già Lam đã dày công sưu tập các công trình về kinh, luật, luận, thi kệ và tản văn của Đại lão Hòa thượng tập thành bộ "Toàn tập Tâm Như - Trí Thủ"...
(Xem: 10214)
Cái gương quên mình cầu pháp của ngài Pháp Hiển đã làm mối khuyến khích cho các vị khác, trong đó có ngài Huyền Tráng... HT Thích Trí Quang
(Xem: 7881)
Pháp sư Ấn Thuận thế danh là Trương Lộc Cần, sinh năm 1906 thuộc tỉnh Triết Giang, huyện Hải Ninh... Như Nguyệt
(Xem: 9880)
Ngài sinh vào ngày 17 tháng 7, 1898 tại Kotahena, ngoại ô thành phố Colombo, thủ đô của nước Tích Lan (Sri Lanka)... Bình Anson
(Xem: 9090)
Đại hội Phật giáo Việt Nam 1964 suy tôn Ngài lên ngôi vị Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất... Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 5991)
Thiền Sư Dogen (Đạo Nguyên Hy Huyền) Sơ Tổ Tông Tào Động Nhật Bản... Tâm Thái
(Xem: 24560)
Hòa Thượng vốn sinh trong một gia đình trung nông, phúc hậu nhơn từ, có nề nếp đạo đức vững chắc và kính tin Tam Bảo.
(Xem: 36419)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 7739)
Gương Bát Nhã thấm nhuần vạn thể, Tâm Kim Cương triệt phá lầm mê, An nhiên, thật tướng Bồ Đề, Khứ lai tự tại, đi về Chơn Như...
(Xem: 11556)
Ông Bàng Uẩn (P'ang Yun) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Tâm Thái
(Xem: 10051)
Hòa thượng thế danh Lê Diêu, Pháp danh Như Lễ, Pháp hiệu Thích Huyền Dung... Nhiều Tác Giả
(Xem: 5233)
Hầm Lửa Hóa Thành Ao Sen là Chuyện Trưởng Giả Thất Lị Cấp Đa... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 5427)
Tì kheo ni Pháp Dữ đã được đức Thế Tôn khen ngợi là vị thuyết pháp đệ nhất trong Ni chúng... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 10014)
Đại Sư Pháp Tạng (643-712) là tổ thứ ba của tông Hoa Nghiêm, Pháp Tạng có nghĩa là kho tàng của chánh pháp.
(Xem: 7892)
Thành tâm nhớ tưởng bậc Tôn Sư, cố Đại Lão Hòa Thượng THÍCH HUYỀN QUANG, Đệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN... Hạnh Cơ
(Xem: 9378)
Tổ tiên của ngài vốn ở nước Khương-cư (Sogdiana), nhưng đã mấy đời sống ở Thiên-trúc. Thân phụ ngài, nhân làm nghề buôn bán mà theo thuyền buôn sang Giao-chỉ sinh sống... Hạnh Cơ
(Xem: 8669)
Đại sư Đạo An họ Vệ, sinh vào năm thứ 3 niên hiệu Kiến-hưng (314) đời vua Mẫn đế thời Tây-Tấn... Nguyên tác Hán văn của cư sĩ Hồng Tu Bình; cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 46545)
Có thể nói, không có một Tôn giáo nào, một hệ tư tưởng nào đề cao con người và đặt niềm tin vào con người như là đạo Phật... HT Thích Minh Châu
(Xem: 6912)
Tên tiếng Phạn của Ngài là Avalokitesvara, dịch âm ra Hán ngữ là A-phược-lô-chỉ-đê-thấp-phạt-la, dịch nghĩa là Quán Thế Âm... Hạnh Cơ
(Xem: 12332)
Phật giáo không thể không có mối liên hệ theo nhiều dạng khác nhau với giai cấp phong kiến Trung Quốc, đặc biệt là các vị Đế Vương... Nguyên tác: Vương Chí Bình; Đào Nam Thắng dịch
(Xem: 5804)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 14524)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 13005)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12452)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14586)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 12450)
Tịch Thiên (Śāntideva, tục danh: Sāntivarman) là một triết gia, một Tăng sĩ Phật giáo Đại thừa sống vào khoảng cuối thế kỷ VII và nửa đầu thế kỷ VIII Tây lịch... Thích Nguyên Hiệp
(Xem: 10961)
Tổ Phước Huệ, Tăng cang Hòa thượng húy thượng Ngộ hạ Tánh, tự Hưng Long, hiệu Phước Huệ. Thế danh Nguyễn Văn Cự, sinh ngày mồng 8/4/Ất Hợi (1875) tại làng Trung Kiên, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 9645)
Tổ sư Minh Hải - Đắc Trí - Pháp Bảo thường được nói đến với dòng Thiền Lâm Tế Chúc Thánh... ĐĐ Thích Như Tịnh
(Xem: 16721)
Nếu bản Việt ngữ của pho sách “Đạo Ca Milarepa” đến được tay bạn đọc thì phải nói đây chính là đến từ tình yêu thương và sự gia trì vĩ đại của đức Milarepa cùng chư Thầy Tổ... Đỗ Đình Đồng
(Xem: 8489)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Con Trai Tôi (Dalai Lama, My Son) Tự truyện của mẫu thân Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14... Tác gả: Diki Tsering; TT Thích Nguyên Tạng dịch Việt
(Xem: 5978)
Không những đạo Phật do chư cao tăng người Thiên Trúc, Tây Vực, v.v... truyền sang vùng Ðông Nam Á, mà các chư tăng trong vùng địa phương cũng liên tiếp nối nhau sang đất Phật... Thích Hằng Ðạt
(Xem: 9965)
Đại thiền sư Hư Vân, tuổi đời được một trăm hai mươi tuổi. Tăng lạp được một trăm lẻ một tuổi.
(Xem: 6380)
Hòa Thượng, thế danh là Đỗ Xuân Hàn, húy Thượng Tâm Hạ Thị hiệu Thiện Minh, tự Trí Nghiễm. Sinh năm 1921 tại làng Bích Khê, quận Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 11360)
Hám Sơn Đại Sư Tự Truyện - Thích Hoằng Đạt dịch
(Xem: 7052)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 46727)
Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 13516)
Ngài họ Lê, húy Thiệt Diệu, hiệu Liễu Quán, sinh ngày 18 tháng 11 năm Đinh Mùi (1667) tại làng Bạc Mã, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên.
(Xem: 8402)
Cố Thượng tọa thế danh Đỗ Văn Nghiệp, sinh ngày 06 tháng 02 năm 1943 (năm Quý Mùi) tại làng Giang Hải, xã Phan Rí Cửa, quận Hòa Đa, tỉnh Bình Thuận.
(Xem: 6864)
Như tất cả chúng ta đều biết Tổ Khánh Anh là người xuất thân từ Quảng Ngãi và từ những năm 1916 Ngài đã quy y Tam Bảo tại chùa Cảnh Tiên... HT Thích Như Điển
(Xem: 9183)
Tổ sư họ Tạ, húy Nguyên Thiều, tự Hoán Bích, sinh giờ Tuất, ngày 15 tháng 5 năm Mậu tý, tức là ngày 08 tháng 7 năm 1648, tại huyện Trình Hưng, phủ Triều Châu, Quảng Đông.
(Xem: 6187)
Báo Viên Giác tại Hannover, Đức Quốc, Số Đặc Biệt để Tưởng Niệm Cố HT Thích Minh Tâm
(Xem: 6912)
Bài thuyết trình trong Ngày Về Nguồn Lần Thứ VII – Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư, Từ 27 tháng 9 đến 29 tháng 9, 2013 - Chùa Cổ Lâm, Seattle, tiểu bang Washington... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 17866)
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18190)
Viết về cuộc đời giác ngộ của những Thiền Sư là viết về một cái không vĩ đại, rỗng suốt, trong veo... Như Hùng
(Xem: 15815)
Kỷ Yếu Về Cội - Là tư liệu quý giá về các Phật Học Viện Trung Phần: Báo Quốc, Phổ Đà, Hải Đức, Linh Sơn, Quảng Hương...
(Xem: 6965)
Danh Tăng Việt Nam Sinh Vào Năm Tuất - Tâm Không Vĩnh Hữu sưu tầm và biên soạn
(Xem: 31265)
Tập truyện này không nhắm dẫn chúng ta đi vào chỗ huyền bí không tưởng. Chỉ cần trở lại với tâm bình thường, một tâm bình thường mà thấy đất trời cao rộng vô cùng.
(Xem: 9589)
Đại sư Trí Khải sinh năm 538, vào thời đại mà sau này các sử gia gọi là Nam Bắc triều (220-589)... Tuệ Hạnh
(Xem: 7703)
Nhờ tinh thần tinh tấn tu học và không ngừng trau dồi kiến thức, cư sĩ Chánh Trí đã tạo cho mình vốn hiểu biết giáo lý Phật đà sâu rộng...
(Xem: 21636)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 34183)
Chính các ngài là những cánh tay đắc lực nhất đã giúp đức Phật hữu hiệu nhất trong công việc hoàng pháp độ sinh...
(Xem: 33332)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 14244)
Hòa Thượng Thích Minh Châu sinh năm 1918 tại Quảng Nam. Xuất gia năm 1946 với Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết tại chùa Tường Vân, Huế...
(Xem: 35679)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 13015)
Thành Kính Tưởng Niệm Hòa Thượng THÍCH GIÁC LÂM (1928 - 2012)
(Xem: 15785)
Hòa thượng Thích Quảng Đức, Pháp danh Thị Thủy, Pháp tự Hành Pháp và thế danh là Lâm văn Tức, sinh năm 1897 tại làng Hội Khánh, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa...
(Xem: 13696)
Huyền Trang - Nhà Chiêm BáiHọc Giả (Hsuan-Tsang, the Pilgrim and Scholar) - Anh ngữ: HT. Thích Minh Châu - Việt dịch: Ni sư Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 33066)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 26396)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 41432)
Truyện kể về những bậc thánh siêu phàm trong Phật Giáo - Tác giả: Ngô Trọng Đức; Dịch giả: Từ Nhân
(Xem: 40370)
Tăng bảo, nương vào phần tự giác của pháp làm cơ sở để kiến lập xã hội hòa bình, nhân gian Tịnh độ... Thích Đồng Bổn
(Xem: 20066)
HT Thích Như Điển - Phương Trượng Chùa Viên Giác, Hannover, Đức Quốc
(Xem: 33722)
HT Thích Nguyên Siêu trụ trì Chùa Phật Đà, San Diego và Tu Viện Pháp Vương, Escondido, Hoa Kỳ
(Xem: 29690)
Sau khi Mahà Moggallàna nhận được những lời giáo huấn do Đức Phật đích thân truyền dạy (ghi trong Anguttara Nika(ya VIII, 58), ngài liền vững tâm hành đạo với một quyết tâm bất thối.
(Xem: 33738)
Lịch sử của vị đại đệ tử này cũng chẳng kém phần đạo vị và rất xứng đáng cho mọi người noi gương, vì con đường giải thoát của Ngài đã đi cũng lại là con đường Bát Chánh của chư Phật.
(Xem: 18889)
Thiền Tăng A Nậu Lâu Ðà cũng là Sa môn có đủ công phu tu luyện để dùng "Thiên nhãn" theo dõi "Tịnh Quang" của Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni khi đấng Toàn Giác thanh thoát xả báo thân...
(Xem: 22734)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 22459)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 49019)
Thầy Tuệ Sỹ là một học giả uyên bác về Phật Giáo Nguyên ThủyĐại Thừa. Thầy làm nhiều thơ, chơi dương cầm, viết một số truyện ngắn đặc sắc.
(Xem: 11975)
Hòa Thượng Họ Đinh, húy Tiến Đạm, Pháp Hiệu Thanh Đạm, đã viên tịch vào lúc 02 giờ sáng ngày Chủ Nhật 04 tháng 12 năm 2011 (nhằm ngày 10 tháng 11 năm Tân Mão).
(Xem: 11170)
Hoài Tố sinh năm 625, vốn là người họ Phạm, viên tịch năm 698, ngay tại chùa Thái Nguyên, Trường An. Năm đó, ông 74 tuổi... Bằng Hư
(Xem: 22525)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 18012)
Vài Hình Ảnh Kỷ của Niệm HT Thích Hạnh Đạo - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 15125)
Thế danh: Nguyễn Đình Mân, Pháp danh: Thị Uẩn, Pháp tự: Hạnh Đạo, Pháp hiệu: Thuần Phong, Đời thứ 42 thuộc dòng Thiền Lâm Tế.
(Xem: 22699)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 16009)
Hòa Thượng húy thượng Nguyên hạ Bàng - Đại Nguyện tự Chí Năng, hiệu Giác Hoàng đã viên tịch vào ngày 7 tháng 7 năm 2011
(Xem: 13121)
Là một trong những thiền sư đầu tiên tại Mỹ, Philip Kapleau được xem là người có công lao đặc biệt quan trọng trong việc truyền bá đạo Phật nói chung và thiền tông nói riêng...
(Xem: 19730)
Kỷ Yếu Tưởng Niệm Hòa Thượng Thích Quảng Tâm (1947-2010) - Tăng Chúng Đệ Tử Tu Viện Vĩnh Đức
(Xem: 12071)
Pháp sư Tịnh Không được xem là người có công phục hưng Tông Tịnh Ðộ trong hiện đại, Ngài đã cống hiến cả cuộc đời mình cho việc nghiên cứu, thực hànhtruyền bá pháp môn Tịnh Ðộ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant