Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Một Chốc Với “trong Những Thoáng Chốc”

27 Tháng Hai 202417:54(Xem: 888)
Một Chốc Với “trong Những Thoáng Chốc”

Một Chốc Với “trong Những Thoáng Chốc” 

Tiểu Lục Thần Phong

 

Đọc xong đã lâuđịnh bụng sẽ viết những cảm nhận nhưng cứ lần lữa hoài. Dẫu biết rằng “Phò mã tốt áo” không cần phải khen, nói chỉ thêm dở, tán thêm tệ, viết lại thừa nhưng không viết thì tâm cảm thấykhông yên. Cuối cùng rồi tôi cũng thắng được sự lười biếng để ngồi xuống trang trải chút tâm ý với đời.

Cuốn Trong Những Thoáng Chốc dày 350 trang là tập tùy bút và tạp ghi của nhà văn Vĩnh Hảo. Vĩnh Hảo là một cây bút đầy nội lực và sung mãn, anh viết trong suốt mấy chục năm ở hải ngoại. Anh đã cho xuất bản 13 tác phẩm văn và thơ, ngoài ra còn có hàng trăm bài viết khác trên các trang mạng của bạn bè. Anh còn có trang web www.vinhhao.info lưu giữ tất cả những sáng tác. Vĩnh Hảo vừa là họ tên và cũng là bút danh. Anh sinh ra trong một gia đìnhcó gốc hoàng tộc triều Nguyễn (nội tổ là Tuy Lý Vương). Cha là nhà văn Bửu Đáo và mẹ là nữ sĩ Trinh Tiên. Anh có đến 14 anh chị em và hơn nửa số đó đều là những nhà văn, nhà thơ, họa sĩ...Sở dĩtôi dài dòng một chút về anh vì tôi biết tánh anh khiêm hạ, ẩn mìnhít khi chịu xuất lộ hay phô bày. Thật tình thì không nói ra mọi người cũng biết về anh, vì suốt những thập niên cuối của thế kỷ XX và thập niên đầu của thế kỷ XXI anh là cây bút viết nhiều nhất và viết hay của văn đàn hải ngoại.

Đọc quyển Trong Những Thoáng Chốc cứ như nghe những lời tình tự tâm sự của anh. Văn phong nhẹ nhàng, từ tốn, tế nhị và rất tinh tế. Những nhận xét, những ý nghĩ, cái nhìn, sự quan sát của anh rất thú vị, đượm màu sắc và không khí thiền. Có những điều hay những sự việc rất bình thường trong đời sống, chúng ta cứ lướt qua, đến khi đọc Trong Những Thoáng Chốc mới vỡ lẽ ra: “À, thì ra là thế!”. Nhờ đọc quyển tùy bút và tạp ghi này mà tôi học thêm nhiều điều mới mẻ (trong khi nó vốn bình thường trước kia). Văn anh viết cứ như anh “Tự bạch” với bản thân mình. Anh tự nói chuyện với chính mình. Tôi cảm nhận anh không hề đặt mục đích “Văn dĩ tải đạo” và cũng chẳng dùng đao to búa lớn kiểu “gởi thông điệp”… Đơn giản là anh chỉ bộc bạch nỗi lòng của một người con nước Việt, một tay du sĩ lãng mạn nhưng gan dạ, một cư sĩ đầy nhiệt huyết, tín tâm và có chánh kiến, chánh tư duy…

“Sinh ra, tồn tại, suy biến và hoại diệt trong từng thoáng chốc. Thế gian được thấy như thế...” Những dòng chữ này thể hiện cái quy luật sanh – trụ – dị – diệt mà nhà phật thường nói. Thoáng chốc mong manh nhưng đẹp vô ngần, cái đẹp nào cũng mong manh. Có lẽ để ca tụng cái đẹp mong manh mà nhà văn Vĩnh Hảo lấy tên quyển sách Trong Những Thoáng Chốc.

Sống ở đời, ai ai cũng hám danh, trước cái tên phải gắn vào một lô những chức tước, danh xưng, phẩm hàm, học vị… Nỗi khổ vì ham gắn thêm những mỹ tính từ vào cái tên hay cố hủy bỏ những xú tính từ đi liền với cái tên làm cho con người ta “Điên đảo” vô cùng. Hầu hết người đời chẳng ý thứcđược việc này. Anh đã viết những dòng chữ: “Mình còn không có thì cái tên của mình làm gì có được nhỉ? Nghệ thuật sống vui ở đời là hãy quên mình đi. Nhưng muốn quên mình, trước hết hãy quên cái tên của mình cái đã. Cái tên mà không quên được thì cái “mình” không thể quên được đâu.”  Những dòng chữ nhỏ nhẹ nhưng nặng ký của một người hiểu rõ vô ngãthực hành vô ngãquán sát thân và tâm. 
Ở bài Đồng Hồ, đọc xong chợt giật mình. Cái đồng hồ là vật để xem thời gian, nó quen thuộc đến độ gần như chẳng ai có ý niệm với nó. Nó có mặt khắp mọi nơi, nhưng trong mắt nhà văn Vĩnh Hảo thì “Nó” không chỉ là “Nó” . Nó còn là một triết lý nhưng dễ mấy ai nhận ra: “Nó không bao giờ đi luimột bước nào. Nó luôn bước tới. Không một mảy may nhìn về quá khứHiện tại cũng mơ hồ đối với nó: dường như có, dường như không; chỉ một thoáng tồn tại rồi bị vượt qua, bị bỏ quên”. Thời gian vốn không thậtquá khứ – hiện tại – tương lai vốn từ một niệm tâm mà ra. Cái đồng hồ tưởng chỉ là vật để xem thời gian nhưng xem ra bản thân nó cũng là một bài học, một sự nhắc nhở đối với những người sống có chánh niệm.

Anh Vĩnh Hảo nho nhã, hiền lành nhưng rất bản lãnh. Khi Trịnh Công Sơn bị nhiều người quá khíchtấn công bằng nhiều ngôn từ tàn tệ và chụp đủ thứ mũ bậy bạ. Anh can đảm viết bài phân tích những sai quấy của người quá khích, bày tỏ sự thông cảm với nhạc sĩ họ Trịnh, trân trọng những đóng góp vô cùng to lớn vào nền âm nhạc nước Việt của người nhạc sĩ họ Trịnh. Vĩnh Hảo viết: “Trịnh Công Sơn làm đúng thiên chức của một người nghệ sĩ đứng trên mọi phe phía. Vào cái thời điểm căng thẳng, ngột ngạt mà có lẽ chính bản thân bạn và chúng tôi cũng thế, run rẩy, dè dặt, rút vào bóng tối, thì Trịnh Công Sơn một mình, một cây đàn, đứng lên giữa bao họng súng ngờm ngờm tiến vào thủ đô miền Nam, cất lên tiếng hát chân thành tha thiết, nói lên ước vọng chung của người dân hai miền...” - (bài Trịnh Công Sơn – Nối vòng tay lớn). Trịnh Công Sơn là một trường hợp khó phân định rạch ròi, bên nào cũng có thành kiến và nghi kỵ Mỗi người lại có cách nhận định khác nhau, tùy theo vị trí và quan điểm của mình. Duy tài năng của người nhạc sĩ thì không một ai có thể phủ nhận. Vĩnh Hảo trân trọng và bày tỏ sự cảm thông với người nhạc sĩ, tất nhiên điều này đã khiến những kẻ quá khích không hài lòng. Trong nước có nhà văn Ban Mai viết quyển “Trịnh Công Sơn vết chân dã tràng” ca ngợi tài năng âm nhạc, ca từ của Trịnh Công Sơn cũng bị chính quyền đấu tố, thu hồi và thiêu hủy sách.(đôi khi vậy mà lại hay, chính quyền vô tình quảng bá tên tuổi của nhà văn Ban Mai, nhờ vậy mà giới viết lách hải ngoại biết đến chị)
Nhà văn Vĩnh Hảo là một người nho nhã, hiền lành nhưng bản lãnh có thừa. Anh từng viết kiến nghịkêu gọi văn nghệ sĩ ủng hộ việc chống lại sự chụp mũ, đấu tố thầy Tuệ Sỹ. Những kẻ quá khích lợi dụng tự do ngôn luận và có phương tiện truyền thông trong tay ngày đêm ra sức mạ lỵ, chụp mũ tấn công thầy, chỉ vì việc hoằng pháp không thuận theo ý đồ chính trị của bọn họ.

Trong bài: “Nhà Thơ và Nhà In”, nhà văn Vĩnh Hảo cho chúng thấy cái khả năng trào lộng, hóm hỉnh của mình thông qua câu chuyện đối đáp giữa một nhà thơ và nhân viên nhà in. Câu chuyện hư cấu nhưng rất hiện thực. Sách vở, thơ văn thê thảm như thế nào giữa thời buổi công nghệ tin học phát triển cao độ. Có không ít những nhà thơ tự huyễn hoặc mình, phô bày cái “tôi” quá lớn so với thực tàiKết thúc bài: “Nhà Thơ Và Nhà In” bằng đoạn văn để ngỏ cho người đọc tự hiểu lấy: “Không cãi nữa. Tan giờ làm việc. Lái xe về nhà, anh nhà in cứ thắc mắc tại sao anh thợ lại bảo ông thi sĩ kia là cựu sĩ quan pháo binh trong khi chính tai anh nghe là biệt động quân kia mà. Có ai hiểu ý anh thợ xin mách bảo giùm cho anh nhà in. tại sao lại là pháo binh chứ?”. Đọc xong tôi không khỏi tủm tỉm cười thầm một mình.

Cười xong lại đọc tiếp: “ Điên một chút, là một nghệ thuật. Điên vừa đủ để cười được, vừa đủ để xem nhẹ tất cả, vừa đủ để phủi tay một cái, đứng dậy, lên đường” ( bài Hãy Điên Một Chút Với Đời). Thật vậy, ở đời phải điên một chút, có “điên” mới thấy hạnh phúc. Sống mà tỉnh quá, lúc nào cũng tinh ranh, rành rẽ quá khó mà “sướng” được. Điên một chút với người, với đời thì dễ thươnghơn nhiều. Cuộc đời này vốn giả tạm, vốn vô thướng, có đó rồi lại không, chẳng có chi bền vữngtrường tồn như những câu khẩu hiệu: “Vạn tuế”, “Muôn Năm”, “Bất diệt”, “Sống Mãi”… Những kẻ đặt ra khẩu hiệu ấy, buộc mọi người phải tung hô khẩu hiệu ấy lại chính là những kẻ quá “Điên đảo mộng tưởng” (Tâm Kinh Bát Nhã). Phàm những người nghệ sĩ “Điên” một chút lại hạnh phúc, laị thăng hoa trong việc sáng tác hay trình diễn. Cái “Điên” của người nghệ sĩ khác xa với cái điên của bọn độc tài. Cái “Điên” của người nghệ sĩ đem lại hương hoa cho đời còn cái điên của bọn độc tàichỉ mang lại khổ đau, chết chóc, tai vạ…

Trong bài Hương Vị Xuân anh viết: “...Trao tặng quà là một mỹ tục quý hóa. Nhưng khi sự trao tặng đi đến chỗ tính toán, đổi chác, so đo, có qua có lại mới toại lòng nhau, thì mỹ tục sẽ trở thành hủ tục mà nếu hời hợt vô tình, sẽ không sao nhận biết. Đừng bao giờ cho rằng sự việc gì xảy ra ở xứ sở văn minh đều là văn minh...”. Chuyện tặng quà cho nhau vào những dịp lễ vốn là mỹ tục biểu tỏ tình cảm giữa con người với nhauTuy nhiên ngày nay tặng quà trở thành gánh nặng phải lo toan, tính toán, cân đo đong đếm sao cho vừa với từng mối quan hệ thân – sơ. Tặng quà đã bị truyền thôngvà thương mại kinh doanh lèo lái theo hướng thị trường, làm sao để người ta tiêu thụ hàng hóa được nhiều nhất mà chẳng cần biết đến ý nghĩa nhân văn, tinh thầnQuảng cáo và truyền thông đã thương mại hóa tất cả, đẩy chủ nghĩa vật chất lên tới cao độ nhất, khuếch trương chủ nghĩa vật chất một cách thô thiển nhất. Đúng như nhà văn nói, không phải sự việc gì xảy ra ở nơi văn minhcũng đều văn minh cả.

“Cảm ơn hoa đã vì ta nở” là một câu thơ của nhà thơ Tô Thùy Yên. Nhà văn Vĩnh Hảo mượn đó làm tiêu đề của bài viết. Anh viết: “...Hoa vẫn phát tiết và trọn vẹn mở hết lòng mình ra, không thắc mắc lựa chọn, không phân biệt so đo. Từ anh nông dân cho đến vị quốc vương, từ người tỷ phú đến kẻ ăn mày trắng tay, từ những hồng nhan kiều nữ cho đến kẻ bạc phận kém duyên...”. Mượn chuyện hoa để nói đến bình đẳng tánh giác của chúng sanh hay còn gọi là Phật tánh. Hoa nở dâng hương sắc không có phân biệt hay lựa chọn. Hoa hiến dâng hết mình cho người và muôn loài. Hoa chẳng vì một ai. Pháp Phật cũng thế, chẳng phân biệt già, trẻ, nam, nữ, sang, hèn… Pháp cho tất cả mọi người. Ai cũng có thể học, ai cũng có thể tu và ai cũng có thể giác ngộ như nhau. Pháp hay hoa chẳng hai mà cũng chẳng một. Con người học gì được ở hoa chưa?

Văn Vĩnh Hảo bàng bạc như mây trời, lại nhẹ nhàng như tơ người, phảng phất đượm vị thiền, đâu đó lại ngân lên tiếng chuông chùa tiêu sái sơ nguyên. Bản thân nhà văn đã từng xuất gia tu học, đã từng hùng tâm đởm lược toan bẻ nạng chống trời. Cái khí chất hào hùng trong tâm lượng tỏa ra:

Ơi kẻ lữ hành, ơi kẻ lữ hành

Lên đường, hãy cứ lên đường 
( Lời Ca Cho Kẻ Lên Đường)

Đường nào đây? Nhất định chẳng phải là đường công danh sự nghiệp, không phải đường danh lợiái tình, càng không là đường văn thơ phù phiếm. Đây chính là lên đường giải thoát, đường hướng tới phương trời cao rộng, đường liễu sanh thoát tử. Tuy nhiên trong lúc tạm thời thì dấn thân đường cứu khổ phò nguy, ra sức hoằng dương chánh pháp, hết mình trong công việc văn hóa – giáo dục. Nhà Văn Vĩnh Hảo đã sáng lập và điều hành tờ Phương Trời Cao Rộng, tiếc rằng thời tiết nhân duyên không thuận, tăng - tục thờ ơ, cộng với thời buổi công nghệ kỹ thuật phát triển… nên tờ báo yểu mệnh, chỉ tồn tại được hai năm. Tiếp đó anh lại làm chủ bút của nguyệt san Chánh Pháp. Tạp chí duy trì được mười mấy năm nay, tuy là báo tôn giáo nhưng với tư tưởng phóng khoáng anh đã dành “đất” cho văn hóa, nghệ thuật… Dùng nghệ thuật để chuyển tải Phật pháp, dùng nghệ thuật để thực hiện sứ mệnh hoằng phápvăn hóagiáo dục
Quét rác là một công việc thường nhật, vốn chẳng có chi để nói, tuy nhiên với cái nhìn tỉnh thức của một cư sĩ Phật giáo thì lại có chuyện rất đáng để nói. Nếu như thi sĩ Quách Tấn từng bảo trước tết là hoa sau tết là rác, hoa với rác vốn không hai mà cũng chẳng một. Hoa cũng chính là rác mà rác cũng là hoa. Rác bên ngoài thì dễ thấy, dễ nhận biết và dễ dọn dẹp. Rác trong tâm mới khó biết, khó quét dọn tẩy trừ, bởi vậy cho nên: “ Quét dọn rác rến, lau chùi bụi bặm là hiện tướng, cũng là hiện tượng, của việc trau luyện nội tâm, tịnh hóa ý niệm. “Thời thời thường phất thức, vật sử nhạ trần ai”(kệ của Thần Tú). Lau chùi trong từng giây phút, từng niệm, đừng để bụi rác bám vào”

Với bài Sống Với Người Việt thì nhà văn đặt lại vấn đề mà hầu hết chúng ta đều quan tâm, ấy là cái căn cước Việt, cái tâm thức Việt. Người Việt vừa tự tôn lại vừa tự ti, vừa muốn sống chung với nhau nhưng lại vừa kình chống nhau dữ dội. Có không ít người tránh né xa cộng đồng Việt, luôn miệng chê những tánh xấu của người Việt, khổ nỗi vẫn không thể nào bỏ được cái căn cước Việt, cái nhân dáng Việt, cái văn hóa Việt. Cụ thể hơn là bữa cơm không thể thiếu chén nước mắn, ăn gì ăn nhưng cũng quay về với cơm, tránh né thế nào rồi cũng ra chợ Việt mua những món yêu thích hay thèm thuồng. Trong bài này nhà văn viết: “… Còn nói là món (hay hương liệu/đồ gia vị) “quốc hồn quốc túy” thì phải kể đến nước mắm và mắm ruốc, mắm nêm...”. Bài này chia thành ba mệnh đề: Thích gần chợ Việt, thích thức ăn Việt, thích nhìn thấy người Việt, thích nghe và đọc tiếng Việt. Quý vị hãy đọc đi để cảm nhận thêm và cảm nhận riêng.

Quyển sách dày 350 trang, từ trang đầu đến trang 298 là tùy bút và tạp ghi, từ trang 299 đến trang 350 là những bài trả lời phỏng vấn và những lá thư tòa soạn. Tờ báo Chánh Pháp bắt đầu từ năm 2009 với khổ 10.75”x 13”, sau khi ra được 31 số thì đến tháng 12/ 2011 chuyển qua bộ mới với khổ 8.5”x 11”. Mỗi tháng ra một số và mỗi số anh Vĩnh Hảo viết một lá thư toà soạn, tùy theo sự kiệnlịch sửvăn hóa và hoàn cảnh xã hội mà mỗi lá thư có một chủ đề khác nhau. Ở lá thư tòa soạn số 1 của bộ mới đã đề cập đến động đất Nhật Bản, sóng thần Thái Lan, cách mạng hoa lài Tunisia lan rộng khắp Trung Đông, châu Phi, cả thế giới rúng động. Thế giới vô thường luôn biến chuyển, khổ đau tràn ngập khắp mọi nơi, mọi giới và mọi loài. Học Phật để biết thế nào là khổ, vì sao khổ, cách hết khổ...Học Phật để sống sao cho an lạc giữa dòng đời biến độngbất an và khổ đau… Cứ như thế mỗi số một lá thư với mỗi chủ đề khác nhau, bắt đầu bằng lá thư: Khởi Đầu Cho Một Hành Trình, Lá Thư Xuân, Những Bước Chân Trần...và lá thư cuối trong quyển Trong Những Thoáng Chốc là Bất Sinh, tổng cộng được 25 lá thư tòa soạn của báo Chánh Pháp. Mỗi lá thư là một chủ đềcủa tờ nguyệt san tháng đó. 
Khép lại quyển sách, tâm trí tôi vẫn còn mơ màng với những dòng chữ nhẹ nhàng tuôn chảy như suối nguồn. Không khí, hơi văn và cả thanh âm, hình ảnh trong quyển sách nhẹ nhàng theo tôi vào giấc ngủ.

 

Tiểu Lục Thần Phong 
Ất Lăng thành, 0224

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 831)
Trước khi tìm hiểu chủ đề “Nương thuyền Bát nhã là gì? ”, chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của từ Bát nhã.
(Xem: 785)
Từ “Phật” (Buddha) đã được biết đến và lưu truyền trước khi Đức Phật xuất hiệnẤn Độ.
(Xem: 749)
Đức Phật, Ngài là con người, bằng xương bằng thịt, như bao nhiêu con người khác...nhưng Ngài là một con người giác ngộ, tỉnh thức...
(Xem: 759)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 759)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
(Xem: 660)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 919)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1238)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1409)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 1142)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1463)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 929)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 836)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 939)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 957)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 930)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 959)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 1081)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 905)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 1049)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 1049)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 971)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 1011)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 925)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1081)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 1027)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 953)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 1056)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 984)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 911)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 1014)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 954)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1201)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 984)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1072)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1229)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1667)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1237)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1310)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1181)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 1035)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 996)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 1027)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 873)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1546)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1425)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1401)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1342)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1444)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1389)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant