Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phẩm 21: Thiện Sinh Luân Vương

01 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 7923)
Phẩm 21: Thiện Sinh Luân Vương

KINH KIM QUANG MINH
(KINH ÁNH SÁNG HOÀNG KIM)
Hoà Thượng Thích Trí Quang Dịch Giải 
Bản Hoa Dịch của Ngài Nghĩa Tịnh

 

Phẩm 21: Thiện Sinh Luân Vương 

Vào lúc bấy giờ, đức Thế tôn vì cả đại hội nói về vương pháp chính luận rồi, lại bảo, đại hội các người nên lắng nghe. Như lai lại nói cho các người về một sự phụng hành chánh pháp xưa kia của Như lai. Ngay lúc ấy đức Thế tôn nói những lời chỉnh cú sau đây.

(1) Như lai xưa kia 
làm vị luân vương
bỏ hết đại địa 
và cả đại dương
đem bao trân bảo 
đầy bốn đại lục 
cung kính hiến cúng 
chư vị Như lai
(2) Như lai xưa kia 
trong vô lượng kiếp
cầu pháp thân 
tối cực chân tịnh
nên bao bảo vật 
đều xả bỏ cả, 
cả đến thân mạng 
cũng không tiếc lẫn. 
(3) Trong thì quá khứ 
khó lường đời kiếp, 
có bậc đẳng giác 
danh hiệu Bảo kế; 
sau khi Ngài đã 
nhập vào niết bàn
có một vị vua 
tên là Thiện sinh
(4) Làm bậc luân vương 
cả bốn đại lục, 
ngoại biên đại dương 
đều qui phục cả; 
vua có hoàng thành 
tên Diệu âm nhạc, 
vua thường cư trú 
nơi hoàng thành ấy. 
(5) Đêm mộng thấy nói 
phước trí Như lai
Thấy có pháp sư 
tên là Bảo tích
ngồi nghiêm trên tòa 
tựa vầng thái dương
diễn giảng kinh mầu 
Ánh sáng hoàng kim
(6) Sau khi tỉnh mộng
vua rất hoan hỷ
nỗi hoan hỷ lớn 
tràn khắp cơ thể. 
Đến lúc trời sáng, 
vua ra hoàng cung
đi đến dà lam 
của chư Bí sô. 
(7) Luân vương tôn kính 
cúng thánh chúng rồi, 
liền hỏi các ngài : 
trong thánh chúng này 
có hay không có 
pháp sư Bảo tích 
thành tựu công hạnh 
hóa độ chúng sinh? 
(8) Bấy giờ Bảo tích
vị đại pháp sư, 
cư trú ở trong 
một cái tịnh thất
chánh niệm trì tụng 
kinh mầu Hoàng kim
trang nghiêm bất động
thân tâm vui đẹp. 
(9) Một vị Bí sô 
hướng dẫn luân vương 
đến chỗ cư trú 
của ngài Bảo tích
thấy trong tịnh thất 
ngài ngồi thẳng mình, 
toàn thân đầy cả 
ánh sáng tướng đẹp. 
(10) Bí sô bảo vua: 
đây, ngài Bảo tích
giữ được hành xứ 
sâu xa của Phật, 
đó là bản kinh 
Ánh sáng hoàng kim
kinh vua các kinh, 
tối thượng bậc nhất. 
(11) Luân vương tức thì 
lạy ngài Bảo tích
cung kính chắp tay 
thỉnh cầu ngài: 
Xin bậc mặt đẹp 
tựa như trăng đầy, 
nói cho con nghe 
diệu pháp Hoàng kim
(12) Pháp sư Bảo tích 
nhận lời thỉnh cầu
hứa sẽ nói cho 
bản kinh vua ấy. 
Thế là khắp cả 
đại thiên thế giới
hết thảy chư thiên 
cùng đại hoan hỷ
(13) Vua dùng một nơi 
rộng rãi sạch sẽ, 
tận lực trang hoàng 
trân bảo quí lạ, 
rưới bụi bằng nước 
hương liệu thượng hạng
rải những bông hoa 
màu sắc đa dạng. 
(14) Nơi đặc biệt này 
vua đặt tòa cao, 
trang hoàng bảo cái 
tràng phan gấm lụa; 
xát hương xoa hương 
với đủ mọi cách, 
hơi thơm tỏa ra 
khắp cả mọi nơi
(15) Thiên, long, tô la, 
khẩn na la
ma hô lạc dà 
cùng với dược xoa
nhất là chư thiên 
rải hoa mạn đà
hiến cúng pháp tòa 
rất cao cả ấy. 
(16) Lại có hàng ngàn 
hàng vạn chư thiên 
ưa nghe chánh pháp 
cùng đến tụ tập
Pháp sư bắt đầu 
rời chỗ ngồi cũ, 
họ đã hiến cúng 
bằng những thiên hoa
(17) Bấy giờ Bảo tích
vị đại pháp sư, 
tắm rửa mình mẩy, 
mặc đồ sạch sẽ, 
đi đến đại hội
lại chỗ pháp tòa
chắp tay chân thành 
kính lễ bái. 
(18) Thiên chủ, thiên chúng
cùng với thiên nữ
chung nhau rải xuống 
thiên hoa mạn đà
trăm ngàn thiên nhạc 
khó nghĩ khó tả, 
ở trong không trung 
xuất ra tiếng mầu. 
(19) Bấy giờ Bảo tích
vị đại pháp sư, 
liền lên pháp tòa 
ngồi xếp bằng
tập trung tâm trí 
nghĩ đến mười phương 
trăm ngàn vạn ức 
bậc Đại từ tôn
(20) Nghĩ đến tất cả 
chúng sinh đau khổ
phát sinh ý niệm 
từ bi bình đẳng
Rồi vì chủ mời 
Thiện sinh vương, 
giảng kinh mầu 
Ánh sáng hoàng kim
(21) Vua đã nghe được 
diệu pháp như vậy, 
thành tâm chắp tay 
nói rằng tùy hỷ
Nghe pháp hiếm có, 
Vua trào nước mắt, 
nỗi mừng lớn lao 
tràn ngập thân tâm
(22) Bấy giờ quốc chúa 
luân vương Thiện sinh
vì muốn hiến cúng 
kinh vua Hoàng kim
nên cầm viên ngọc 
như ý ma ni
nguyện rằng hãy vì 
bao loại chúng sinh
(23) Hãy ngay nơi đây, 
đại lục Thiệm bộ
mưa xuống thất bảo
những xâu chuỗi ngọc
để người nghèo thiếu 
đồ dùng tiền của 
hảy đều tùy ý 
thụ hưởng hạnh phúc
(24) Tức thì thất bảo 
đổ xuống khắp nơi, 
sung mãn dân chúng 
cả bốn đại lục, 
cần gì tùy ý
chuỗi ngọc làm đẹp 
y phục ẩm thực 
không thiếu thứ gì. 
(25) Bấy giờ quốc chúa 
luân vương Thiện sinh 
thấy bốn đại lục 
được mưa trân bảo
thì đem hiến cúng 
Bảo kế như lai
và Bí sô tăng 
theo di huấn Ngài. 
(26) Đại hội nên biết 
luân vương Thiện sinh 
ngày nay chính là 
bản thân Như lai
xưa kia đã bỏ 
cả đại địa này, 
cả bao trân bảo 
đầy bốn đại lục. 
(27) Còn ngài Bảo tích
vị đại pháp sư, 
đã thuyết diệu pháp 
cho Thiện sinh vương, 
diễn giảng kinh vua 
cho nhà vua ấy, 
nay ở hướng đông 
thành đức Bất động
(28) Như lai xưa kia 
lắng nghe kinh vua, 
chắp tay nói rằng 
con xin tùy hỷ
quảng thí thất bảo
do những phước ấy 
được kim cương thân 
tối thắng bậc nhất. 
(29) Thân ấy ánh vàng 
trăm phước trang nghiêm
ai nhìn thấy được 
cũng hoan hỷ cả; 
tất cả chúng sinh 
không ai không thích, 
vô số chư thiên 
cũng thích như vậy. 
(30) Như lai trải qua 
chín mươi chín lần 
vô số đời kiếp 
làm vị luân vương
hoặc làm quốc vương 
cho những tiểu quốc 
cũng đến số lượng 
trăm ngàn đời kiếp. 
(31) Trong vô lượng kiếp 
lại làm Đế thích
và cũng đã làm 
bậc Đại phạn vương, 
hiến cúng Thập lực 
đại từ thế tôn 
số lượng đời kiếp 
cũng khó biết hết. 
(32) Như lai xưa kia 
nghe kinh, tùy hỷ
khối phước có được 
số lượng khó biết; 
do khối phước ấy 
được vô thượng giác
được pháp tánh thân 
diệu trí chân thường
Bấy giờ đại hội nghe sự tuyên thuyết như vậy ai cũng than là hiếm có. Ai cũng nguyện phụng trì kinh vua Ánh sáng hoàng kim, quảng bá bất tuyệt.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11607)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11923)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11090)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11330)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12049)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12545)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10742)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17963)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11715)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9931)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10158)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12337)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15322)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11220)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14310)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12071)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15305)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11983)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12386)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11148)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12063)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10594)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12541)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13141)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14771)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12637)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16524)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19621)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13093)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12641)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12228)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11817)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10877)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13470)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11923)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11826)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11618)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12749)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14492)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12587)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15645)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13592)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12872)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9846)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17994)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11143)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9052)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12154)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13028)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10282)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12172)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15283)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16576)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12186)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11446)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14245)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19655)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14135)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24564)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10663)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant