Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phần 7

09 Tháng Giêng 201511:49(Xem: 10302)
Phần 7


KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 7)


Pháp Sư Tịnh Không

 

Chúng ta học Phật có thể được thọ dụng hay không? đúng như bổn kinh đã nói “Huệ dĩ chân thật chi lợi”. Ngay trong một đời hoằng pháp tu học, then chốt thành công hay thất bại cũng chỉ ở câu này. Mười sáu vị Bồ tát phía trên là biểu pháp. Mỗi vị Bồ tát biểu thị một mật nghĩa sâu sắc, người có trí tuệ tương đối, giác ngộ tương đối mới có thể nhìn ra được, còn người thông thường không dễ gì nhận ra. Thế nhưng khi đi vào kinh văn thì người thông thường như chúng ta cũng có thể tường tận. Câu thứ nhất này nói rõ tổng cương lĩnh của toàn kinh.

Ngài Thanh Lương thời nhà Đường hoàn thành phiên dịch kinh Hoa Nghiêm, sau khi hoàn thành chú giải, ngài đặc biệt đem quyển sau cùng lưu thông riêng biệt. Quyển này gọi là Biệt Hành Lưu Thông Bản, chính là “Phổ Hiền Bồ Tát Hạnh Nguyện Phẩm” mà hiện tại chúng ta thường thấy. Quyển kinh này là “Hoa Nghiêm 40”, quyển sau cùng trong phẩm Nhập Pháp Giới, là tổng kết cũng là tổng cương lĩnh của kinh Hoa Nghiêm.

Bồ tát Phổ Hiền tổng hợp toàn kinh quy nạp thành mười cương lĩnh mà ngài đã tu. Có lẽ một số đồng tu nghe “Bồ Tát Phổ Hiền đã tu” sẽ cho rằng không liên quan gì đến chúng ta, vì chúng ta không phải là Bồ tát Phổ Hiền. Học Phật như vậy rất khó thành tựu. Cần phải nhận biết, tất cả Bồ tát, chư Phật Như Lai đã nói trong Phật pháp đều là chính mình. Đức hiệu của chư Phật Như Lai là tánh đức của chính chúng ta. Danh hiệu của tất cả chư phật Bồ táttu đức của chính chúng ta. Tánh - tu không hai, đó là điểm khác nhau giữa Phật pháp và các pháp thế xuất thế gian. Ở ngay trong Phật pháp mới có thể mau chóng ổn định được lợi ích chân thật.

Bồ tát Phổ Hiền là ai? Đó là bản thân chính ta. Nếu chúng ta chăm chỉ phụng hành trên kinh điển, từ tư tưởng kiến giải đến lời nói việc làm mỗi mỗi đều phải đối chiếu với kinh điển, thì đó là tương ưng. Nhất định lấy kinh điển làm tiêu chuẩn, tu sửa hành vi sai lầm của chính mình, đó gọi là tu hành. Y theo bổn kinh để tu hành chính là y theo tiêu chuẩn của Phật A Di Đà, của Bồ Tát Phổ Hiền. Phật A Di Đà là Phật trung chi vương, Bồ tát Phổ Hiền có thể nói là Bồ tát trung chi vương. Trong rất nhiều sám nghi chúng ta đều đọc “Nam Mô Phổ Hiền Vương Bồ Tát”, vua ngay trong các Bồ Tát. Trong hàng Bồ tát, không ai thù thắng hơn Phổ Hiền, cũng như trong các chư Phật, không ai thù thắng hơn so với Phật A Di Đà. Bộ kinh này có vua trong các Phật, vua trong các Bồ tát, chúng ta gặp được bộ kinh này, Phật đã nói “như nghèo được của báu”, vui sướng không thể hình dung. Đạt được rồi, chúng ta nhất định phải lý giải thấu triệt, sau đó phải y giáo phụng hành một cách triệt để. Trước tiên bắt đầu từ đâu? Bắt đầu từ lễ kính.

Lễ kínhkhai hiển ngay trong tánh đức của chính chúng ta. Chúng ta có thể tu lễ kính, đó là lưu xuất của tánh đức. Đại đức xưa thường nói “khởi tu từ tánh”, cách tu học này có thể cảm ứng tương thông cùng với mười phương ba đời tất cả chư Phật Bồ tát, vì chư Phật Bồ tát cũng khởi tu từ tánh. Do đây có thể biết khi chúng ta vừa phát tâm chân thành để tu hành, đó là năng cảm, chư Phật Bồ tát pháp vốn năng ứng. Nguyên do cảm ứng chính ở chỗ này.

Ấn Quang đại sư nói “Một phần thành kính được một phần lợi ích” cũng là như vậy. Một phần thành kính được chư Phật Như Lai gia trì một phần, mười phần thành kính thì được chư Phật Như Lai gia trì mười phần. Nơi một đạo tràng, giờ nào lúc nào, chúng ta cảm thọ ở nơi đây sẽ khác hoàn toàn với cảm thọ trong cuộc sống thường ngày. Cảm thọ ở nơi đây có pháp hỉ, thanh tịnh vui mừng. Một số đồng tu đến nói với tôi, chúng ta bước vào giảng đường nghe kinh là hưởng thụ. Lời nói này là thật. Vì sao chúng ta có hai giờ đồng hồ ở nơi hưởng thụ, mà loại hưởng thụ không thể có ở những nơi khác trong cuộc sống, cái hưởng thụ này từ đâu mà ra? Xin thưa, vì nhờ ánh sáng Phật chiếu vào, mọi ngườiđạo tràng được tắm mình trong ánh sáng Phật.

Có một năm tôi ở Maine, Hoa Kỳ giảng kinh, một số người nước ngoài mỗi lần tôi giảng kinh họ đều đến nghe. Họ ngồi xếp bằng ngay ngắn, nhắm nghiền đôi mắt. Mặc dù họ không hiểu tiếng Trung Quốc, nên không hiểu tôi nói cái gì nhưng mỗi ngày họ đều đến. Các đồng tu hỏi họ: “Bạn nghe hiểu không? Nếu nghe không hiểu thì tại sao mỗi ngày bạn đều đến?”. Họ trả lời: “Oh, vì cảm thọ ở nơi đây rất tốt!”. Như vậy, họ đến để hưởng thụ, họ cho rằng cái từ trường này khác biệt, cảm thọ rất thoải mái. Trong đó, còn có một số người có công năng đặc biệt, Phật pháp gọi là thần thông, cụ thể thiên nhãn thông, nói rằng họ được ánh sáng Phật chiếu vào. Đạo tràng giảng kinh luôn ở trong quang gia trì, cho nên mỗi người ngồi ở đây đều có thể sanh tâm hoan hỉ. Đạo lý chính ngay chỗ này, không phải tôi giảng hay mà nhờ Phật lực gia trì.

Chúng ta nhờ vào cái gì mà được Phật lực gia trì? Đó là một lòng cung kính. Lòng cung kính này là năng cảm, chư Phật Bồ tát liền có ứng, cho nên chúng ta nhất định phải hiểu, dạy người “thành thật”. Cả đời làm người, thành thành khẩn khẩn, trung thực thật thà, dáng vẻ thành thật, không lừa dối chính mình, không lừa dối người khác. Người thật thà vô cùng đáng quý, được Phật quang chiếu đến họ thậm chí ngay cả khi họ không học Phật. Phật tâm thanh tịnh, Phật tâm bình đẳng, không thể nói người học Phật mới đặc biệt được chiếu cố, còn không học Phật thì Phật không chiếu cố, tâm đó làm sao có thể xem là tâm bình đẳng. Không học Phật nhưng có tấm lòng thành khẩn, Phật đều chiếu cố bình đẳng, không hề phân biệt. Thử hỏi tâm thành thật đáng quý dường nào.

Lễ kính chính là lưu xuất thành khẩn. Chúng ta phải kính người, kính việc, kính vật, lễ kính bình đẳng, ngay đến kiến muỗi chúng ta xem thấy cũng như xem thấy chư Phật Như Lai. Như vậy mới gọi là tu hạnh Phổ Hiền. Động vật nhỏ như muỗi kiến cũng có Phật tánh, tất cả động vật đều có Phật tánh. Ngoài động vật, thực vật, khoáng vật cũng đều có pháp tánh, cho nên chúng ta phải cung kính tất cả. Việc này không phải không làm được mà do chúng ta không chịu làm. Người xưa nói, chỉ có hai việc khó: lên trời khó, cầu người khó. Việc này là cầu chính mình, không phải cầu người. Cầu chính mình thì có gì khó, làm cho tánh đức của chúng ta hoàn toàn lưu xuất, chính mình nhất định phải giác ngộ, cho nên nhất định phải nỗ lực. Thế gian hiện tại tai nạn triền miên, nếu chúng ta không chăm chỉ nỗ lực tu, tương lai làm sao có thể tự cứu, cứu người.

Trong cuộc sống thường ngày, tôi không xem truyền hình nên không nắm tin tức bên ngoài, Học hội Tịnh Tông cũng không có truyền hình, tất cả tivi đều phát nội bộ, bên ngoài không có ăngten trời, chúng tôi cũng không nghe phát thanh, không xem báo chí, nhưng có một số đồng tu cho biết, một hai tháng gần đây tảng băng Nam Cực đã tan ra. Vấn đề này tương đối nghiêm trọng, băng của Nam Bắc Cực nếu tan ra, mực nước biển sẽ dâng lên, đô thị Duyên Hải trên toàn thế giới thảy đều chìm vào đáy biển. Tai nạn này do đâu? Có người luôn cho rằng do thiên tai, khoa học gia cũng đổ cho thiên tai, nhưng cách nhìn trong Phật pháp lại không phải như vậy. Phật pháp nói tất cả tai nạn đều do chính chúng ta tạo thành. Người nghĩ ra được như vậy là người đã giác ngộ. Nếu người người có thể tự giác, người người đều có thể thay đổi tự làm mới, tai nạn này liền được tiêu trừ. Nạn nước là từ lòng tham của con người mà ra.

Không ít người đã đọc qua kinh Lăng Nghiêm, Phật trong hội Lăng Nghiêm giảng nói rất rõ ràng, tham dục là nước, sân hận là lửa, ngu si là gió. Tam tai nước gió lửa, nếu người của toàn thế giới đang cố sức tăng thêm tham sân si thì ba loại hiện tượng nước gió lửa này sẽ liền nổi lên. Hoàn cảnhy báo, y báo tuỳ theo chánh báo mà chuyển, chánh báo là tâm của chúng ta. Phật luôn khuyên chúng sanh dập tắt tham sân si, người người đều có thể dập tắt. Môi trường sinh thái trên địa cầu này rất nhanh hồi phục lại bình thường, sẽ không có tai nạn nếu chúng sanh dập tắt tham sân si.

Ngoài tham sân si còn có ngạo mạn, quả báo của mạn là gì? Là động đất. Mạn là tâm không bình, cao thấp nhấp nhô. Những tai nạn tự nhiên này từ lòng người chiêu cảm biến hiện ra. Trên kinh luận, Phật dạy chúng ta những đạo lý phương pháp này, xác xác thực thực chân thật có thể tiêu trừ tất cả tai ương. Vậy phải tiêu trừ từ đâu? Từ ngay nơi nội tâm, Phật pháp gọi là nội học. Dùng nội công để cải thiện hoàn cảnh bên ngoài. Chúng ta không luận đối với người, với việc, với vật, tất cả đều cung kính, dù chúng ta không thể giúp đỡ đại chúng chuyển đổi, một mình ta vẫn có thể chuyển đổi. Một mình chuyển đổi gọi là biệt nghiệp, đại chúng gọi là cộng nghiệp. Phật trong hội Lăng Nghiêm nói, quả báo cộng nghiệp cùng biệt nghiệp không như nhau. Nếu biệt nghiệp của chúng ta thù thắng, cho dù ở ngay trong cộng nghiệp vô cùng ác liệt, chúng ta vẫn có thể tránh được. Ngay trong tai nạn lớn vẫn có rất nhiều người may mắn. Biệt nghiệp không giống nhau, sau một tai nạn lớn, nếu quan sát tỉ mỉ chúng ta sẽ thấy người may mắn sống sót thường là người có tấm lòng lương thiện, ít tham sân si mạn, nhiều từ bi thiện niệm.

Hy vọng đồng tu chúng ta mọi lúc mọi nơi đều dùng tâm chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, từ bi cung kính đối với tất cả. Phải tập thành thói quen, thật sự dụng công. Dụng công không phải một ngày đọc bao nhiêu bộ kinh. Khi tư tưởng lời nói việc làm hoàn toàn không tương ưng với kinh thì dù mỗi ngày đọc hai trăm biến cũng uổng công, không dùng được. Trước đây lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam nói: “đáng đọa lạc thế nào, vẫn phải đọa lạc thế đó”, không ích gì. Do đó phải thật làm, ngày ngày đọc kinh, kiểm điểm lỗi lầm của chính mình. Đọc kinh cũng giống như soi gương vậy, ngày ngày cầm gương lên soi lỗi lầm của chính mình, đem nó thay đổi lại, như vậy mới hữu dụng, lợi ích vô biên. Cho nên phải tu tâm chân thành, chân thành đối nhân xử thế, chúng ta nhất định có thể vượt qua đại kiếp nạn. Kiếp nạn hiện tiền, chúng ta không hề có chút ý niệm sợ hãi, không hề có chút tâm lo lắng, rất thản nhiên tự tại, đó chính là chúng tacông phu, chân thật được thọ dụng.

(Còn tiếp)

KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC

Pháp sư: HT. TỊNH KHÔNG

Biên dịch: Vọng Tây cư sĩ

Biên tập: PT. Giác Minh Duyên

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32348)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6396)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11028)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30189)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30271)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7861)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 11970)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12131)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11452)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12484)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34284)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9668)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52064)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10580)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10332)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10536)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10312)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12905)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16009)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21601)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9492)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 6985)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10260)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12448)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12614)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16069)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16327)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13687)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16328)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11887)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13651)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14200)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9089)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11636)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11163)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16048)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14214)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16049)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12580)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11904)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11638)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15520)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11361)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13876)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11863)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12415)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14789)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11834)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 12971)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14304)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20450)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13050)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10823)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20524)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14183)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20078)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17395)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13795)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31688)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11879)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant