Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phần 50

09 Tháng Giêng 201511:49(Xem: 11028)
Phần 50


KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 50)

 

Pháp Sư Tịnh Không



SỞ DĨ GIẢ HÀ? NHƯ LAI ĐỊNH HUỆ, CỨU SƯỚNG VÔ CỰC. Ư NHẤT THIẾT PHÁP, NHI ĐẮC TỐI THẮNG TỰ TẠI CỐ

Đoạn kinh văn nói về đức dụng pháp thânbáo thân của Như Lai. Lý sự trong đây đến Bồ Tát thông thường còn không thể lý giải, huống hồ phàm phu.

Phía trước kinh văn ghi rõ: “Như Lai chánh giác, kỳ trí nan lượng, vô hữu chướng ngại. Năng ư niệm khoảnh, trụ vô lượng ức kiếp. Thân cập chư căn, vô hữu tăng giảm” nghĩa là vô cùng tán thán đức dụng pháp thân, báo thân vô biên. Trong Phật pháp, ngay giới kinh, Phật dạy chúng ta không được tự khen mình chê người, nhưng khi chúng ta xem đoạn kinh văn thì chẳng phải Thế Tôn đang tán thán chính mình hay sao? Vì sao Thế Tôn phải dùng phương pháp này để nói pháp? Bởi vì sự việc không người nào biết, “chỉ Phật cùng Phật mới có thể cứu cánh” nên Phật đành phải tự tán thán. Sau khi tán thán, Ngài giải thích: “Sở dĩ giả hà?”, nghĩa là tại sao Phật phải dùng cách nói này?

“Như Lai định huệ, cứu sướng vô cực”

Danh hiệuNhư Lai” ở phẩm sau cùng tôi sẽ giải thích tỉ mỉ, bởi vì phía sau có mười hiệu. Trong mười hiệu, hiệu thứ nhất là Như Lai. Nếu theo nghĩa rộng, người kiến tánh mới được gọi là Như Lai. Do đây mà biết, trên quả địa Như Lai, mười loại đức hiệu này Bồ Tát cũng có. Bồ Tát phá một phẩm vô minh, chứng một phần pháp thân, họ liền đầy đủ mười hiệu. Tuy đầy đủ nhưng chưa đạt đến cứu cánh viên mãn. Cho nên viên giáo sơ trụ Bồ Tátnăng lực tùy loại hiện thân như Phổ Môn Phẩm đã nói là đáng dùng thân gì để độ, Ngài liền hiện ra thân đó.

Thích Ca Mâu Ni Phật ba ngàn năm trước giáng sanh ở bắc Ấn Độ, thị hiện tám tướng thành đạo. Tám tướng thành đạo thuộc địa vị gì? Trong bốn giáo của Thiên Thai, tám tướng thành đạo thuộc về Tạng Giáo Phật. Nói cách khác, viên sơ trụ Bồ Tátnăng lực làm việc thị hiện này được gọi là “Như Lai”, cũng là “Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác, Phật, Thiên Nhân sư”, mãi đến cứu cánh quả vị, mười hiệu viên mãn. Nếu các vị không thể thể hội ý nghĩa thì người xưa thường dùng ánh trăng để làm thí dụ. Mùng hai, mùng ba chúng ta xem thấy trăng lưỡi liềm, đó là ánh sáng thật của trăng. Ánh trăng ngày rằm tròn đầy viên mãn cũng là trăng thật, không phải giả. Bồ Tát viên giáo sơ trụ, nhị trụ cũng giống như trăng non, còn quả vị cứu cánh viên mãn giống như ánh trăng rằm. Cho nên Bồ Tát sơ trụ là Phật thật, Đại sư Thiên Thai nói “Lục Tức Phật”, địa vị này gọi là “Phần Chứng Tức Phật”. Họ là thật nhưng họ chỉ chứng được bộ phận mà chưa chứng được viên mãn.

Phần Chứng Tức Phật bao gồm những vị thứ: Viên Giáo Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác, tổng cộng bốn mươi mốt ngôi thứ, kinh Hoa Nghiêm gọi là bốn mươi mốt vị Pháp Thân Đại Sĩ. Họ đều thuộc Phần Chứng Phật, đều có năng lực thị hiện tám tướng thành đạo, đều đầy đủ mười hiệu Như Lai.

Như Lai định huệ”, “định” là thiền định, “huệ” là trí tuệ. Người thấy tánh thì định huệ của họ tuyệt đối không giống Nhị thừa hay Bồ Tát trong mười pháp giới. Bồ Tát trong mười pháp giới chưa kiến tánh, Phật trong mười pháp giới cũng chưa kiến tánh. Vậy Phật của mười pháp giới tương đương quả vị gì của Viên Giáo? Kinh Phật nói, A La Hán trong pháp giới bốn thánh, chúng ta gọi là tiểu thừa A La Hán, Bích Chi Phật; công phu đoạn chứng của họ là năng lực đoạn phiền não tương đương Bồ Tát viên giáo thất tín vị, nhưng trí tuệ đức tướng không thể so sánh với Bồ Tát thất tín vị. Bồ Tát thất tín trí tuệ cao hơn rất nhiều, nhưng mức độ đoạn phiền não thì giống như họ. Vậy, Phật trong Tạng giáo chỉ có thể đến Bồ Tát cửu tín, thập tín vị, vẫn chưa đến sơ trụ, nghĩa là chưa phá vô minh. Bồ Tát sơ trụ phá một phẩm vô minh, chứng một phần pháp thân, được đại tự tại. Thanh văn, Duyên Giác, Bồ Tát trong pháp giới bốn thánh thì tự tại nhỏ, không phải đại tự tại, nhưng chí ít cũng phá một phẩm. Thiền địnhtrí tuệ của Pháp Thân Đại Sĩ thông thường chúng ta gọi là giới-định-huệ tam vô lậu học.

Cứu sướng”, “cứu” là cứu cánh, “sướng” là hanh thông. Hai chữ “Vô cực” cho thấy không phải Như Lai thông thường mà là Như Lai cứu cánh viên mãn, vì phía sau có câu “cứu sướng vô cực”. Pháp Thân Đại Sĩ vẫn chưa làm được. Câu này cho chúng ta biết, Như Lai cứu cánh viên mãn thị hiện tám tướng thành đạo.

Phật Bồ Tát xuất hiệnthế gian đều thị hiện giống như ý trên kinh Lăng Nghiêm nói là: “tùy chúng sanh tâm, ứng sở tri lượng”. Tâm chúng sanh là cảm, còn Phật là ứng, cảm ứng tương thông không thể nghĩ bàn. Tâm chúng sanh vốn phức tạp, mười pháp giới đều đầy đủ, chúng ta khởi tâm động niệm, ứng hiện của Phật Bồ Tát cũng biến hoá theo. Khi Phật Bồ Tát đến ứng hiệntùy loại hóa thân, đáng dùng thân gì để độ thì Ngài liền hiện ra thân đó, cảm ứng tương thông không sót mảy trần. Đạo lý này gồm lý sâu, sự rộng và phức tạp, kinh Phật định nghĩa “vi diệu khó biết”. Chư Phật Bồ Tát thị hiện ở sáu cõi, không nơi nào không hiện thân, không lúc nào không hiện thân, chỉ cần bạn tỉ mỉ thể hội thì bạn liền có thể quan sát. Người thông thường chúng ta không thể quan sát do vọng niệm quá nhiều, tâm quá thô thiển, sơ sài qua loa. Người tâm tư cẩn mật mới có thể quan sát. Khi quan sát được thì dụng công mới đắc lực.

Chúng ta thường nghe nhiều đồng tu thắc mắc dụng công công phu không có lực. Nguyên nhân do bình thường tâm ý qua loa, không hề y giáo phụng hành. Đồng tu học Phật, tu hành không tận lực nên hiệu quả nhỏ, cũng như đi học không đạt thành tích.

Phật trong tất cả kinh khuyên bảo chúng ta trước tiên phải xây dựng tín tâm. Làm thế nào để xây dựng tín tâm? Đọc tụng đại thừa, lắng nghe Phật pháp, thân cận thiện tri thức, y giáo tu hành, đó là xây dựng tín tâm. Sau khi xây dựng tín tâm, bạn mới có thể thâm giải nghĩa thú đối với tất cả kinh giáo mà Phật tuyên giảng, bạn mới thưởng thức được ý nghĩa pháp vị của Ngài. Pháp vị của Phật chân thật, tuyệt đối không phải là danh vọng lợi dưỡng, năm dục sáu trần thế gian.

Pháp vị thường được kinh Phật thí dụcam lộ. Cam lộ là gì? Chúng ta chưa thấy cũng chưa thưởng thức thì làm sao biết mùi vị, chỉ nghe ghi chép trong sách vở rằng cam lộ là loại nước uống bất tử của thiên nhân. Nói nước uống để mọi người dễ hiểu. Uống cam lộ thì trường sanh bất lão, chúng ta cũng chưa thấy qua. Cam lộ được phỏng đoán là loại mỹ vị, một thực phẩm rất dinh dưỡng. Nhưng nếu uống cam lộ sẽ không chết thì ta thấy không chân thật. Thành thật mà nói, thiên nhân cũng có sanh tử. Người trời phi tưởng phi phi tưởng xứ, thọ mạng khi hết tám mươi đại kiếp cũng phải chết, họ cũng phải đọa lạc. Do đây chúng ta biết, đó chỉ là một hình dung, một thí dụ về loại thức uống bổ dưỡng trên cõi trời. Không chết là hình dung, không phải thật, chỗ này chúng ta không nên hiểu lầm. Có sanh nhất định có tử, có hợp nhất định có tan, đó mới là chân lý. Kinh đại tiểu thừa, Phật thường nhắc nhở chúng ta hiểu rõ chân tướng của vũ trụ nhân sanh. Sau khi hiểu rõ, chúng ta biết phải làm người như thế nào, phải sống ra sao để trải qua đời sống hạnh phúc mỹ mãn.

Biết chính mình sanh ra từ đâu, khi chết đi về đâu, gọi là liễu sanh tử. “Liễu” là tường tận, thông suốt thấu đáo, không chút mơ hồ đối với sanh tử. Không phải nói liễu sanh tử thì không có sanh tử, bạn giải thích như vậy là sai lầm. Liễu sanh tử là tường tận đối với sự việc sanh tử, đó là công phu định huệ đạt đến cứu cánh viên mãn.

Vô cực” không phải tất cả nhân vị đều có. Bồ Tát từ sơ phát tâm đến Đẳng giác đều thuộc về nhân vị, chỉ có Như Lai Phật quả cứu cánh mới là quả vị. Từ câu này chúng ta biết, lời của Thích Ca Mâu Ni Phật phía trước đã nói đó là cảnh giới thiền định, trí tuệ trên quả địa cứu cánh, không phải nhân vị Bồ Tát có thể biết, nên Phật mới chính mình tán thán. Mục đích giúp chúng ta xây dựng lòng tin, sanh khởi sự tôn kính đối với Phật. Cảnh giới của Như Lai, ngay cả Bồ Tát Đẳng Giác còn không tường tận, huống hồ Bồ Tát nhân địa. Chúng ta xây dựng lòng tin kiên định đối với Như Lai Thế Tôn, sau đó mới phát tâm y giáo phụng hành, công phu mới có thể đắc lực.

Hiện tại chúng ta nói tu hành, thực tế so với tiêu chuẩn Phật dạy chúng ta bỏ bớt rất nhiều, không còn đúng chuẩn. Không đúng chuẩn thì bạn không thể thành Phật. Phật dạy mười, chúng ta làm được một, như vậy cũng đã rất cừ khôi. Nhiều người ngay chỉ một phần trăm cũng làm không được. Tuy nhiên, làm được một phần ngàn, hoặc một phần mười ngàn, họ cũng có thể được lợi ích. Lợi ích của Phật pháp chân thật bất hư.

“Ư nhất thiết pháp, nhi đắc tối thắng tự tại cố”

Đây cũng do Thế Tôn nói, không phải Bồ Tát tam hiền thập thánh có thể lý giải. “Tất cả pháp” là tất cả pháp thế xuất thế gian. Bồ Tát được tự tại nhưng không thể gọi là tối thắng. “Tối thắngđồng ý nghĩa với “cứu xướng vô cực”, đều chỉ quả vị cứu cánh. Tâm lìa khỏi phiền não, âu lo, vướng bận mới tự tại. Ngày nay chúng ta không tự tại thì cần suy nghĩ nguyên nhân do đâu? Do vọng tưởng, phân biệt, chấp trước quá nhiều. Phật dạy chúng ta những thứ này hư vọng. Đem hư vọng cho là chân thật chứng tỏ bạn mê hoặc, một lòng một dạ phân biệt cái chân thật thì cái chân thật đó là giả, bạn liền khởi lên vô lượng vô biên phân biệt, chấp trước. Ngay nơi đó mà sợ được, sợ mất thì bạn làm sao tự tại?

Hiện tại toàn thế giới động loạn bất an, người người tự cảm thấy nguy cơ, tâm cuồng ý loạn, đau khổ không nói ra lời. Chúng ta xem thấy thật đáng thương. Vậy dùng phương pháp gì để giải quyết? Đọc qua Phật kinh mới biết thân tâm không an do bạn mong muốn bảo hộ thân thể mình và bảo hộ hoàn cảnh sống của mình. Ngay nơi đó bạn khởi phân biệt, vọng tưởng, chấp trước. Nếu bạn xả bỏ hết, như kinh Kim Cang dạy “phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng”, vô ngã tướng, vô nhân tướng, vô chúng sanh tướng, vô thọ giả tướng thì làm gì không bình an. Thậm chí nơi nơi bình an, dù bom nguyên tử nổ trên không trung cũng như xem đốt pháo hoa, bình an, không việc gì.

Tình trạng không bình an đều do vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Chấp trước thân thể của chính mình, đời sống của mình mà không biết những thứ này là giả. Kinh Kim Cang nói: “Tất cả pháp hữu vi, như mộng huyễn bào ảnh”, không thứ nào thật. Thân là giả, thế giới cũng giả, ngay đến Phật pháp còn giả, bạn không nên chấp trước Phật pháp. Phật dạy rất rõ ràng: “Pháp còn nên xả, huống hồ phi pháp”. Chữ “pháp” là Phật pháp. Phật pháp còn không được chấp trước (“xả” chính là không chấp trước), không vọng tưởng, không phân biệt, huống hồ tất cả pháp của thế gian. Đó là phương pháp Phật dạy giúp chúng ta tự tại. Lìa khỏi vọng tưởng, phân biệt, chấp trước thì liền đại tự tại.

Hầu hết mọi người vì muốn thân thể khoẻ mạnh nên sáng sớm tập thể dục. Họ ra ngoài chạy bộ, múa quyền, làm nhiều động tác vận động, mệt đến toát mồ hôi, rồi họ cho rằng như vậy thì thân thể sẽ khoẻ mạnh. Người học Phật mỗi ngày ngồi tĩnh tọa, như như bất động, không chút vận động nào mà lại rất trường thọ, cũng không bị bệnh. Vì sao? Những chấp trước của thân thể, niềm hy vọng thân thể khoẻ mạnh, ngày ngày vận động, tẩm bổ là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước nên sinh ra nhiều rắc rối. Vận động co uốn bị bong gân càng phiền phức hơn. Người tu hành hiểu rõ chân tướng sự thật, thảy đều buông bỏ thân tâm thế giới thì không bệnh. Gốc bệnh đã trừ bỏ mới chân thật khoẻ mạnh.

Bạn có thấy bộ kinh luận nào nói Phật, Bồ Tát, A La Hán mỗi ngày phải vận động không? Không hề. Phật, Bồ Tát mỗi ngày có lo tẩm bổ hay không? Cũng không hề. Chúng ta đọc kinh học tập quyết không lơ là mà phải chú ý xem Phật Bồ Tát trải qua đời sống như thế nào. Đời sống khoẻ mạnh, tự tại, hạnh phúc, an vui, chính là vô ngã tướng, vô nhân tướng, vô chúng sanh tướng, vô thọ giả tướng. Vô tướng tuyệt nhiên không phải không có tướng. Vô tứ tướng là trong lòng không có bốn tướng này, chứ không phải cảnh giới bên ngoài không có bốn tướng. Phật dạy chúng ta đoạn hoặc chứng chân là đoạn dứt bốn tướng ở trong lòng, còn trên hình thức vẫn có ta, có bạn, có chúng sanh, có thọ giả, đủ mọi thứ. Trên tướng có cũng không ngại gì. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lý sự vô ngại, sự sự vô ngại”, tất cả pháp đạt tối thắng tự tại chính là sự sự vô ngại.

Chướng ngại thực tế được sanh ra từ vọng niệm bao gồm vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Buông bỏ vọng niệm, bạn liền đạt chánh niệm. Chánh niệm cùng vọng niệm từ chỗ nào mà phân biệt? Sự việc lại phiền phức. Bạn khởi tâm động niệm, lời nói việc làm, nếu tương ưng với bốn tướng, có ngã tướng, có nhân tướng, có chúng sanh tướng, có thọ giả tướng thì thảy đều là vọng niệm. Học Phật vẫn vọng niệm. Khi bạn lạy Phật, “Ta lạy Phật, Phật được ta lạy, Ta cung kính Ngài”, vậy bạn lạy Phậtvọng niệm, làm sao thành tựu? Bước vào niệm Phật đường niệm Phật, “Ta niệm Phật A Di Đà Phậtthế giới Tây Phương Cực Lạc” là vọng niệm, nên bạn niệm Phật công phu không có lực. Câu Phật hiệu được bạn niệm rất lâu, rất nhiều nhưng không niệm tốt, vẫn phiền não, vẫn tham sân si mạn trong cuộc sống thường ngày đối nhân xử thế tiếp vật. Do công phu không có lực, phiền não ngày càng thêm lớn mà lại không thấy trí tuệ. Nếu công phu của bạn có lực, thì phiền não nhẹ, trí tuệ lớn, quá trình tu học pháp hỉ tràn đầy. Kinh Đại thừa nói: “Thường sanh tâm hoan hỉ”, một ngày từ sớm đến tối bạn sống trong hoan hỉpháp hỉ. Lưu ý, loại pháp hỉ này nếu dùng cái nhìn của người thế tục thì đó là thứ bổ dưỡng nhất, không thứ bổ dưỡng nào so sánh được. Khoa học thế gian chưa thể nghiên cứu ra pháp hỷ, mà chỉ nghiên cứu những thứ dinh dưỡng thông thường. Pháp hỉ chỉ trong Phật pháp mới có. Người xưa Trung Quốc từng nói: “Người gặp việc vui, tinh thần thoải mái”. Khi con người hoan hỉ thì tinh thần lên cao, có thể không cần ăn cơm, không cần ngủ nghỉ.

Hoan hỉ theo kinh Phật, từ trời sơ thiền trở lên thì không cần ăn uống, không cần ngủ nghỉ, xả bỏ hết năm dục là tài, sắc, danh, thực, thùy. “Thực” là ăn thức ăn, “thùy” là ngủ nghỉ. Năm thứ đều không có, đó là sơ thiền. Sơ thiền thì dùng thứ gì để nuôi dưỡng thân thể? Thiền duyệt vi thực. Thiền duyệt là trong định huệ có một phần an lạc. An lạc chính là thứ bổ dưỡng của họ, nên năm dục hoàn toàn không cần đến. Trời tứ thiền như vậy, đời sốngnhân gian chúng ta cũng như vậy. Chỉ cần bạn đối với việc đó sanh ra hứng thú, sanh tâm ưa thích thì bạn liền có được phần bổ dưỡng đầy đủ, hiện tại một số người được gọi là năng lượng, danh từ tuy khác nhau nhưng đều chỉ một sự việc.

Phật dạy chúng ta bước vào đời sống phải hoan hỉ, thế nhưng chúng ta từ sớm đến tối âu sầu, khổ não. Làm thế nào để hoan hỉ? Vì sao Phật, Bồ tát hoan hỉ đến như vậy? Khi bước vào cửa Phật, bạn nhìn thấy vị thứ nhất là Bồ Tát Di Lặc. Xây dựng đạo tràng Phật giáo chánh qui thì cái thứ nhất là điện Thiên Vương. Bạn bước vào cửa lớn của điện Thiên Vương sẽ gặp ngay tượng Bồ Tát Di Lặc luôn cười thật tươi. Ngài dạy bạn thường sanh tâm hoan hỉ. Tất cả vọng tưởng, phân biệt, chấp trước thảy buông bỏ thì hoan hỉ. Sơn hà đại địa vô số chúng sanh đều do chư Phật, Bồ Tát biến hoá tạo tác ra, bạn xem người này thì ưa thích, người kia thì chán ghét mà không hề xem thấy chân tướng sự thật. Cái bạn xem thấy chỉ là vọng tướng. Từ vọng tướng sanh khởi vọng tâm. Kinh luận của Tướng tông nói: “Trùng trùng tâm sanh”. Trùng trùng tâm là tâm phân biệt, chấp trước. Trùng trùng tâm sanh là đem hiện tượng bên ngoài chuyển biến. Cảnh tùy tâm chuyển, tướng tùy tâm chuyển, đó là cạn dễ thấy nhưng rất tiếc, bình thường chúng ta lơ là qua loa.

Bạn thấy người hoan hỉ có khuôn mặt và tướng hoan hỉ; họ đang phẫn nộ, bạn cũng thấy cái tướng phẫn nộ, vậy tướng không phải tùy tâm bạn chuyển hay sao? Tâm bạn thanh tịnh hiện ra tướng thanh tịnh; tâm bạn ô nhiễm hiện ra tướng ô nhiễm; nên Phật nói “tâm sanh pháp, pháp sanh tâm”. Tâm sanh pháp, cái tâm đó là chân tâm; pháp sanh tâm, cái tâm đó là vọng tâm. Phật Bồ Tát khác chúng sanh ở chỗ này. Các Ngài trong tất cả cảnh giới có thể làm chủ, không bị cảnh giới mê hoặc, gọi là giác ngộ. Người giác ngộ mới tự tại, trải qua đời sống bình thường. Nên đời sống bình thường chính là đời sống của Phật Bồ Tát.

Vậy Phật Bồ Tát là ai? Là chính mỗi chúng ta. Chúng ta học Phật phải bắt đầu học từ đời sống của Phật Bồ Tát. Kinh Hoa Nghiêm giới thiệu mười loại tự tại, đó là Như Lai trên quả địa Viên Giáo.

Ngày nay chúng taphàm phu, một phẩm phiền não cũng chưa đoạn thì làm thế nào học tập đời sống tự tại?

Có mười loại tự tại:

Thứ nhất là trường thọ, gọi là “mạng tự tại”. Chúng ta có thể trường thọ huệ mạng hay không? Có thể. Kinh Phật xác quyết: “Cầu trường thọ được trường thọ”, nếu bạn cầu không được thì nhất định trên lý luận hoặc phương pháp mong cầu có sai lầm. Chúng ta cầu với ai? Cầu với Phật là sai, mà phải cầu từ tự tánh. Phật là giác tánh, không phải đại biểu cho một người. Cầu “tự tánh Phật” thì mới “hữu cầu tất ứng”, Phật pháp gọi là “nội học”.

Các vị phải ghi nhớ, nếu ngoài tâm mà cầu pháp thì đó gọi là ngoại đạo. Phật pháp dạy chúng ta phải từ nội tâm mà cầu. Thọ mạng của phàm phugiới hạn nhất địnhnghiệp lực xoay chuyển, cho nên một số người xem tướng đoán mạng có thể đoán mạng của bạn một cách chuẩn xác. Thật đáng thương khi mạng mình bị người ta đoán chính xác, vì bạn là phàm phu. Đối với Phật Bồ Tát, những người xem tướng đoán mạng đều xem không được, vì các Ngài không có mạng. Không có mạng mới gọi là trường thọ, có mạng đều là đoản mạng. Xem bói cho người khác là xem đoản mạng, nhưng còn trường thọ thì không ai có thể xem ra.

Làm thế nào chuyển đoản mạng thành trường thọ? Chỉ có Phật pháp. Ngoài Phật pháp, bất cứ phương pháp khoa học nào cũng đều không làm được. Phật pháp đích thực chuyển đoản mạng thành vô lượng thọ. Phương pháp chính ngay trên bộ kinh này. Lý luận, phương pháp, sự thật, chân tướng thảy đều hiển bày trên bộ kinh mang tên Vô Lượng Thọ. Thọ mạng vì sao không tự tại? Nếu từ sự tướng mà nói, là đem nghiệp lực chuyển thành nguyện lực thì tự tạitrường thọ. Người phàm phu sanh đến thế gian do nghiệp lực. Bạn đến thế gian để nhận quả báo. Đời quá khứ tu thiện nghiệp thì bạn đến để hưởng phước, còn đời quá khứ tạo nghiệp bất thiện thì bạn đến để chịu tội, cho nên Phật nói: “Nhân sanh trả nghiệp”. Đó là giải đáp rõ ràng của Thích Ca Mâu Ni Phật nếu bạn muốn hỏi con người vì sao phải đến thế gian. Bạn đến để nhận và trả nghiệp báo mà đời quá khứ đã tạo ra.

Tuy nhiên, bạn vẫn không trung thực. Một mặt cứ thù đáp nghiệp báo, mặt khác lại tiếp tục tạo nghiệp. Nghiệp nhân quả báo chèn ép lẫn nhau, đời đời kiếp kiếp không hề ngừng dứt, tạo thành hiện tượng vô lượng kiếp luân hồi. Hiện tượng này rất khổ, chỉ Phật mới biết. Cho nên trên kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện, chư Phật Như Lai tán thán Thích Ca Thế Tôn có thể ở trong đời ác năm trược giáo hoá tất cả chúng sanh khổ nạn biết pháp khổ vui. Phật Bồ Tát biết một cách quá tường tận tình hình của luân hồi, trong khi chúng ta mê ngay đó, tạo nghiệp thọ báo, thọ báo lại tạo nghiệp, ngày ngày làm những việc này nên khổ không nói ra lời.

Đời này chúng ta may mắn gặp Phật pháp, pháp môn đại thừa cứu cánh liễu nghĩa, một đời nhất định vãng sanh bất thoái thành Phật, hi hữu không gì sánh bằng. Chỉ cần bạn chuyển biến ý niệm, đem nghiệp lực chuyển biến thành nguyện lực thì bạn chính là thừa nguyện tái sanh. Cách chuyển thế nào? Chưa chuyển thì mỗi niệm vì ta, có ta, nhà của ta, quyến thuộc của ta, niệm niệm vì ta, đó là nghiệp lực. Đem chúng chuyển đổi lại, mỗi niệm vì tất cả chúng sanh, mỗi niệm vì Phật pháp cửu trụ thế gian thì cái ta sẽ không còn. Ý niệm vừa chuyển đổi chính là thừa nguyện tái lai. Sinh mạng nghiệp lực trước đây của chúng ta đã kết thúc một giai đoạn, sau đó là nguyện lực tái lai. Ở thế gian này bạn tùy ý tự tại, muốn ở bao lâu thì ở, không có chướng ngại, muốn lúc nào vãng sanh thì vãng sanh, do nguyện lực làm chủ. Then chốt chính là ý niệm này. Phàm thánh chỉ cách nhau ở một niệm. Kinh giáo Phật dạy: “Sanh Phật khác biệt ở kẽ tóc”, chính là ý niệm chuyển đổi lại thì liền thành Phật, không chuyển đổi được thì là phàm phu.

Đạo lý chuyển phàm thành thánh bạn đã hiểu, vậy chần chờ gì mà không chịu chuyển? Do tập khí quá nặng, vọng tưởng, phân biệt, chấp trước từ vô lượng kiếp đang khống chế. Thế nhưng, bạn phải nhớ, những tập khí này không phải thật, vẫn là hư vọng. Vọng thì quyết phải đoạn. Bồ Tát Mã Minh trong Khởi Tín Luận nói rất hay: “Bất giác vốn không”, vốn không thì đương nhiên có thể đoạn; “bổn giác vốn có”, vốn có thì nhất định có thể hồi phục. Ý niệm bạn vừa chuyển đổi thì có thể hồi phục, tại sao không chịu làm? Đó là ngu si cùng tột.

Cho nên đối với kinh giáo của Như Lai, chúng ta không thể không nỗ lực phụng hành. Nếu phụng hành trọn vẹn thì bạn liền viên mãn chuyển đổi và được mạng tự tại. Trên quả địa Như lai, những cảnh giới này đối với chúng tađại thọ dụng, vấn đề là phải lý giải thấu triệt sự lý, chúng ta mới thật tin và thật làm. Bạn nói bạn tin nhưng làm không được thì cái tin đó là giả. Thật tin thì quyết phải làm được. Lòng tin của bạn ở mức độ nào, chỉ cần xem cách bạn làm, hành vi của bạn sẽ liền biết tín tâm của bạn.

Thứ hai là tâm tự tại. Ngày nay tâm chúng ta không tự tại, phiền não, lo lắng rất nhiều. Tâm của Phật Bồ Tát thì tự tại vì Phật Bồ Táttrí tuệ, có phương tiện. Các Ngài điều phục phiền não, trụ vào tam muội. Điều này chúng ta có thể học. Nếu chân thật muốn học, bạn phải đem phiền não, lo lắng, vướng bận trong tâm thảy đều buông bỏ, để tâm của bạn trụ ngay trong niệm Phật tam muội thì bạn liền tự tại.

Trên thực tế, hội Kim Cang Bát Nhã, hôm trước tôi đã giảng qua, tôn giả Tu Bồ Đề thấy chân tướng đời sống của Thích Ca Mâu Ni Phật, Ngài nhìn thấy vì sao Phật tự tại, vì sao an vui đến như vậy nên cực lực tán thán Thế Tôn, sau đó Ngài đến thỉnh giáo với Phật.

Người không tu hành thì không nói nhưng chúng ta, những người tu hành, quan trọng nhất hai sự việc. Thứ nhất là làm thế nào hàng phục tâm mình. Tâm đó chính là vọng niệm. Làm thế nào có thể hàng phục vọng niệm là một vấn đề lớn. Vấn đề thứ hai là phải trụ tâm như thế nào. Tâm mình phải an trụ chỗ nào? Khi tôn giả Tu Bồ Đề vừa hỏi, liền dẫn khởi hội Kim Cang Bát Nhã. Thích Ca Mâu Ni Phật giảng rất nhiều. Tu Bồ Đề không phải là căn tánh nhất đẳng, nên Thích Ca Mâu Ni Phật dài dòng lôi thôi, chúng ta nghe cũng không hiểu. Nếu người học Phật chúng ta đem vấn đề này hỏi Thích Ca Mâu Ni Phật: “Làm thế nào hàng phục được tâm mình?” Thích Ca Mâu Ni Phật nhất định sẽ chắp tay niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”. Bạn xem, thật đơn giản, vấn đề gì cũng được giải quyết.

Phải trụ tâm như thế nào”? Vẫn trụ trên câu “A Di Đà Phật”, cao minh hơn rất nhiều so với kinh Kim Cang. Đây gọi là pháp tối thượng thừa. Tu Bồ Đề không phải là người thượng thừa, còn các vị là người thượng thừa. Tôi nói đây là lời thật. Đó chính là tâm tự tại. Chúng ta dùng phương pháp gì để đem lo lắng, vọng tưởng, dính mắc, xen tạp thảy đều xả bỏ? Một câu A Di Đà Phật. Công phu niệm Phật vào lúc nào? Lúc khởi tâm động niệm. Sáu căn chúng ta tiếp xúc với cảnh giới bên ngoài, ý niệm vừa khởi thì “A Di Đà Phật”, đánh bạt vọng niệm. Đây chính là phương pháp hàng phục tâm. Mỗi niệm trong tâm có A Di Đà Phật thì tâm của bạn liền trụ trên câu A Di Đà Phật. Tâm trụ câu A Di Đà Phật làm gì không được thấy Phật. Kinh Lăng Nghiêm nói: “c Phật niệm Phật, hiện tiền đương lai, tất định kiến Phật”, trong suốt hai đến sáu thời trong lòng không nên có bất cứ thứ gì, vì tất cả ý niệm đều là nghiệp luân hồi. Bạn thử nghĩ xem, từ sớm đến tối, bạn tạo ra nhiều nghiệp gì? Nhiều nghiệp luân hồi. Trong lòng bạn có Phật thời gian bao nhiêu? Cho nên công phu của bạn không có lực.

Tất cả thời gian mọi lúc mọi nơi, đối nhân xử thế tiếp vật thảy đều A Di Đà Phật. Nếu bạn không làm được như vậy thì phiền não lại đến. Chẳng hạn, thấy người mà ta không ưa đến tìm, tâm của ta loạn động lên, vậy là bạn không biết dụng công. Người biết dụng công phải nghĩ A Di Đà Phật đang đến, tâm của bạn biến họ thành A Di Đà Phật. Tướng tùy tâm chuyển, bên ngoài là cảnh giới, bạn có năng lực đem họ chuyển biến thành A Di Đà Phật thì họ chính là A Di Đà Phật. Bạn xem, chẳng phải bạn đã đối diện với A Di Đà Phật rồi sao? Người thiện là A Di Đà Phật, người ác cũng là A Di Đà Phật; thuận cảnhA Di Đà Phật, nghịch cảnh vẫn là A Di Đà Phật, thì bạn mới vào được niệm Phật tam muội, mới đạt tâm tự tại. Còn nếu phân biệt đây là Phật, đó không phải là Phật thì hỏng, bạn làm sao tự tại?

Thứ ba là đời sống vật chất tự tại. Kinh văn gọi là “Tư cụ tự tại”. “Tư cụ” là đời sống vật chất của chúng ta. Thế Tôn khi còn ở đời rất đơn giản, nửa ngày ăn một bữa đủ no, quần áo bằng vải thô chỉ để che thân; buổi tối chỉ cần có chỗ nằm xuống nghỉ ngơi. Ngài trải qua đời sống mà ngày nay chúng ta gọi là mức sống thấp nhất, nhưng đời sống vật chất của Ngài được đại tự tại, “tri túc thường lạc”, trong lòng không chút gánh nặng nào, tâm lý rất khỏe mạnh. Tâm lý khỏe thì sinh lý cũng khỏe. Thân Ngài khỏe mạnh không hề bệnh tật.

Chúng ta vì sao nhiều bệnh đến như vậy? Vì tâm lý không khỏe mạnh, chẳng hạn nghi ngại thức ăn không sạch sẽ, nghi thần nghi quỷ, lo sợ bị bệnh. Ý niệm vừa nghĩ đến bệnh thì chỗ này đau, chỗ kia đau, quả nhiên bệnh liền đến. Bệnh từ đâu? Từ nghĩ mà ra, từ vọng tưởng mà có. Người tâm lý khỏe mạnh, ăn no rồi một niệm không khởi cũng không cần biết đã ăn những thứ gì, nên thân thể của họ thường hằng khỏe mạnh. Lìa khỏi vọng tưởng, phân biệt, chấp trước thì làm sao không khỏe mạnh?

Không có chọn lựa, không một ý niệm vì chính mình, thân thể này chỉ vì chúng sanh phục vụ, là công cụ phục vụ chúng sanh, không liên quan gì với ta; ta lợi dụng công cụ vì tất cả chúng sanh. Bạn nghĩ xem, tự tại an vui dường nào! Cho nên người học Phật, không luận tại gia xuất gia, không luận giàu sang bần tiện, nếu như thậtđạo tâm thì nên trải qua mức sống rất bình thường, quyết không xa xỉ, không cầu hào hoa, không mong cầu nâng cao phẩm chất đời sống của chính mình.

Nếu bạn muốn trải qua đời sống tốt, Phật cũng sẽ không phản đối, bởi vì Phật không có ý niệm. Nếu Phật phản đối bạn thì thành ra Phật có phân biệt, chấp trước. Cho nên Phật khuyên người, nhưng Phật không miễn cưỡng ai. Tất cả mọi thứ, bạn tự xem thấy mà làm, tâm của Phật mãi mãi thanh tịnh. Nếu Phật rơi vào phân biệt, chấp trước thì còn phiền não hơn so với chúng ta, chẳng phải Ngài đã quan tâm quá nhiều việc rồi sao? Nên Ngài chỉ khuyến cáo, quyết không miễn cưỡng bất cứ người nào. Chúng ta cũng phải học tập.

Trên đời sống vật chất được tự tại, chúng ta có dư thì hãy giúp người khác. Lúc đó phước đức của bạn liền thêm lớn, công đức cũng lớn. Tu phướckhông chấp tướng thì phước đức biến thành công đức; còn tu phước chấp tướng chỉ mang lại phước đức, không phải công đức. Chấp tướngchấp ngã tướng. “Ta đã tu, ta đã làm rất nhiều việc tốt”, đó là phước đức, không phải công đức. Vô ngã tướng thì tất cả phước đức bạn tu đều biến thành công đức. Công đức có thể thoát sanh tử, chứng bồ đề; còn phước đức thì không thể. Khác biệt ở chỗ vi tế này chính mình nhất định phải rõ ràng tường tận.

Bạn bố thí tài thì tài dụng cả đời bạn không thiếu kém. Bạn bố thí cúng dường ăn uống thì bạn sẽ không thiếu ăn uống. Bạn bố thí quần áo thì cả đời bạn sẽ không thiếu hụt quần áo. Thông thường chúng ta nói “cả đời” nhưng Phật pháp gọi là nhiều đời nhiều kiếp không hề thiếu kém. Phàm hễ thiếu kém đều do không chịu bố thí. Không trồng nhân thì làm gì được quả báo.

Thứ tư là nghiệp tự tại.Nghiệp” là tạo tác, người thế gian chúng ta gọi là sự nghiệp. Ngay khi tạo tác thì gọi là sự. Những việc bạn đã làm xong, kết quả về sau gọi là nghiệp. Nghiệp rất phức tạp nên Phật quy nạp thành ba loại là thiện nghiệp, ác nghiệpvô ký nghiệp. “Vô ký” tức không thiện không ác. Thiện nghiệp kết thiện quả, ác nghiệp kết ác báo, còn vô ký sẽ bị đọa trong vô minh, đó là tạo nghiệp. Thuận theo cách nói của người thế gian thì Phật Bồ Tát cũng tạo tác, cũng có kết quả, đó gọi là tịnh nghiệp. Quả báo của tịnh nghiệp không ở trong sáu cõi vì sáu cõi chỉ gồm ba đường thiện và ba đường ác. Quả báo của tịnh nghiệpthế giới Tây Phương Cực Lạc, chứ không ở sáu cõi luân hồi.

Chúng ta muốn tạo tác, nhất định phải tạo tác tịnh nghiệp, đem cuộc sống thường ngày bao gồm thiện nghiệp, ác nghiệp, vô ký nghiệp, thảy đều chuyển biến thành tịnh nghiệp. Nếu bạn có trí tuệ, có phương tiện khéo léo thì sẽ biết chuyển. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Nếu chuyển được cảnh giới thì đồng với Như Lai”. Như vậy, Bồ Tátphàm phu không hề giống nhau, vì Bồ Tát biết chuyển, còn chúng sanh không biết chuyển. Người trí tuệ, có phương tiện sẽ biết chuyển, thảy đều chuyển thành tịnh nghiệp.

Tôi giảng cách này để mọi người nghe dễ hiểu, nhưng thuật ngữ trong Phật pháp gọi “hồi hướng” quả thực không dễ hiểu. Các vị ngày ngày đọc kệ hồi hướng, vậy hồi hướng như thế nào? “Hồi hướng chúng sanh”, “hồi hướng thực tế”, “hồi hướng Bồ Đề”, người có thể đọc ra được rất hiếm. Ba câu này ý gì, người trả lời lại càng ít. Cuối cùng, làm thế nào trong cuộc sống thường ngày, mỗi niệm đều chuyển thành hồi hướng, loại người này càng khan hiếm hơn.

Hồi hướng chính là chuyển biến. Ngay cuộc sống thường ngày, đối với mỗi sự việc nhỏ nhất, khởi tâm động niệm dù là một sợi lông, một hạt bụi, một hạt cát, một giọt nước, cũng đều có thể chuyển biến thành tịnh nghiệp, như thế bạn mới chân thật hiểu hồi hướng. Đem phiền não chuyển thành Bồ Đề, đem sanh tử chuyển thành Niết Bàn, chuyển nhiễm thành tịnh, chuyển tà thành chánh, chuyển vọng thành chân. Trở lại thí dụ vừa rồi, người ta đến tìm bạn, bạn hoan hỉ cung kính nhìn họ vì họ là A Di Đà Phật. Ta chuyển biến họ thành A Di Đà Phật, gọi là hồi hướng. Còn nếu bạn vẫn xem họ thành chúng sanh hoặc oan gia, vừa thấy liền tức giận thì bạn thật không thể vượt qua. Phiền não khởi hiện hành dẫn đến nghiệp chướng hiện tiềnlập tức đọa lạc. Bạn vừa chuyển sẽ liền thành Phật chỉ trong khoảnh một niệm.

Đại sư Ngẫu Ích nói: “Cảnh duyên không tốt xấu”. “Cảnh” là hoàn cảnh vật chất, “duyên” là hoàn cảnh nhân sự, phải bình đẳng, không có tốt xấu, vì sao? Duy tâm sở hiện. Tâm chính là pháp giới, là Như Lai. Cho nên tôi thường nói, tất cả người, tất cả vật, tất cả việc đều là thị hiện của chư Phật Như Lai. Các vị nghe mà không tin tưởng, trong khi nói lời giả thì các vị đều tin. Nói lời giả là những chúng sanh này quá khứ đã tạo nghiệp, thiện nghiệp thiện báo, ác nghiệp ác báo, thì bạn tin tưởng. Thực tế đó là lời giả, không phải chân thật, đó là tùy thuận chúng sanh mà nói. Nếu tùy thuận Phật Bồ Tát mà nói thì không như vậy. Sơn hà đại địa, tất cả người, sự vật đều là chư Phật Bồ Tát thị hiện, đều là hóa thân, báo thân, pháp thân của chư Phật Bồ Tát, đó mới là lời chân thật với bạn. Nếu bạn tin tưởng, đem cảnh giới chuyển đổi lại thì tôi chúc mừng bạn vì bạn đã vào được pháp giới nhất chân. Thành Phật có gì khó, chỉ giữa một niệm. “Vạn pháp nhất như, vạn pháp bình đẳng”, bao gồm tất cả vọng tưởng, phân biệt, chấp trước khói tan mây tán, không lưu lại gì. Vấn đề là bạn có nhận biết rõ hay không, có thể chuyển đổi được hay không? Đó là điều mà thông thường chúng ta gọi là tạo nghiệp. Bạn vừa chuyển đổi thì liền tự tại.

Thứ năm là thọ sanh tự tại, tức thị hiện thọ sanh. Quán Thế Âm Bồ Tát đã nói, đáng dùng thân gì để độ, Ngài liền hiện thân đó.Thị hiện có hai loại, một là ứng thân thị hiện, hai là hóa thân thị hiện.

Ứng thân thị hiện thì phải đến đầu thai, phải ở thế gian này một thời gian tương đối dài để giúp đỡ chúng sanh khổ nạn.

Hóa thân thị hiện là giúp số ít người trong thời gian rất ngắn. Như trong Hư Vân Lão Hoà Thượng Niên Phổ, lão hoà thượng bái Ngũ Đài ba bước một lạy. Đường dài xa thẳm, thời gian dài, nhẫn chịu đói lạnh, giữa đường bị bệnh, ở nơi hoang dã không ai đến giúp. Ngài bị bệnh, Bồ Tát Văn Thù bèn thị hiện thành một người ăn xin đi ngang qua và nhìn thấy. Người ăn xin chăm sóc, giúp đỡ Ngài. Khi lão hòa thượng thuyên giảm bệnh thì ông liền đi. Loại này gọi là hóa thân thị hiện. Chúng ta không dễ học vì chúng ta không có năng lực này, nhưng chúng ta có cách tu học gần giống, với phương pháp tương tự.

Thế gian vô số xã đoàn, vô số hoàn cảnh nhân sự khác nhau. Chúng ta ở đoàn thể nào thì dùng phương pháp của đoàn thể đó để nói pháp, cũng xem như tùy loại thị hiện. Bản thân tôi cũng thường hay gặp phải sự việc này. Hoặc giả chúng ta đi thăm viếng các tôn giáo khác, cũng có lúc các tôn giáo khác đến thăm viếng chúng ta. Thần phụ của Thiên Chúa Giáo, Mục Sư của Cơ Đốc Giáo, A-Hồng của X- Lam giáo, tôi đều từng gặp. Khi gặp họ, tôi chắp tay trước. Khi họ đến thăm tôi, tôi liền gọi họ là Bồ Tát, không cần họ gọi tôi trước. Tôi chắp tay hành lễ với họ. Khi nhìn thấy tôi hoan hỉ cung kính hành lễ, họ rất vui mừng. Họ còn hỏi: “Vì sao gọi ta là Bồ Tát, ta làm sao là Bồ Tát?”. Tôi trả lời: “Bạn chân thậtBồ Tát. Bồ Tát là người có trí tuệ, có giác ngộ, bạn có như vậy không?”. Không sai. “Vậy thì bạn không phải thật là Bồ Tát hay sao, làm gì giả chứ?”. Đây gọi là tùy loại hiện thân, tùy cơ nói pháp. Sau đó, tôi đem Phật pháp giới thiệu với họ.

Phật pháp không hề chướng ngại gì đối với tôn giáo của họ. Phật giáotrí tuệ. Bạn tín ngưỡng tôn giáo của bạn, nhưng tín đồ tôn giáo của bạn có cần học trí tuệ hay không? Thượng Đế có mong muốn con cháu của ông mỗi mỗi đều đầu óc ngu muội hay không? Tôi tin tưởng ý Thượng Đế không phải như vậy. Thượng Đế nhất định hy vọng con cái của Ngài thông minh, trí tuệ. Vậy muốn thông minh, trí tuệ thì phải cùng học tập với vị thầy giáo Thích Ca Mâu Ni Phật. Thích Ca Mâu Ni Phật là thầy bạn, Thượng Đế là cha bạn, không hề xung đột. Vấn đề chẳng phải lập tức được giải quyết rồi sao? Họ nghe rồi cũng rất hoan hỉ.

Cho nên khi thọ thân tự tại, chúng ta vận dụng nó trong mỗi trường hợp khác nhau. Chúng ta có thể thị hiện các loại thân phận khác nhau, đến giúp đỡ những chúng sanh cần giúp đỡ, Phật pháp gọi là “phương tiện khéo léo”. “Phương” là phương pháp, “tiện” là thích hợp.

Thiện” là quyết không trái với nguyên lý, nguyên tắc. Nguyên lý nguyên tắc người thế gian gọi là chân lý, Phật pháp gọi là tánh đức, không trái với tánh đức trong tự tánh vốn đủ, gọi là thiện. Đương nhiên loại phương tiện khéo léo này cần phải có sự tu dưỡng tương đương. Sau đó mới áp dụng vào cuộc sống thường ngày một cách tự tại, tự nhiên, không làm bộ, ra vẻ. Phật pháp phải áp dụng cho cuộc sống thường ngày, phải đem kinh giáo của Phật biến thành đời sống của chính mình.

Tu học Tịnh Độ, đi theo A Di Đà Phật thì đời sống của chúng ta phải giống Phật A Di Đà. Kinh Vô Lượng Thọ, từng câu từng chữ chính là tình hình đời sống của Phật A Di Đà. Chúng ta thâm tín, lý giải, phải làm được, vậy mới là hóa thân của Phật A Di Đà, mới là đệ tử chân thật của Ngài.

Thứ sáu là “giải tự tại”. “Giải” là chân thật thấu hiểu lý giải chân tướng của vũ trụ nhân sanh. Chỉ có chân thật lý giải, bạn mới có thể nói ra vi diệu pháp. Năm xưa Thế Tôn ở đời vì tất cả chúng sanh giảng kinh nói pháp. Trước khi giảng giải Thế Tôn có chuẩn bị giáo án không? Không. Trong đại hội, tất cả mọi người đều muốn nghe lời giáo huấn của Thế Tôn. Bốn chúng đồng tu, bất kể người nào nêu ra vấn đề thỉnh giáo, dĩ nhiên câu hỏi không hề báo trước, và Thế Tôn cũng không hề chuẩn bị trước, nhưng tùy theo câu hỏi mà Ngài trả lời, ghi chép lại thành kinh điển. Tất cả đều không có sự chuẩn bị.

Vì sao Ngài đạt trí tuệ lớn đến vậy? Phật cho chúng ta biết, trí tuệ năng lực là trong tự tánh vốn sẵn có. Phẩm Xuất Hiện trong kinh Hoa Nghiêm ghi rõ: “Tất cả chúng sanh đều có trí tuệ đức tướng Như Lai”. “Tất cả chúng sanhbao gồm chúng ta trong đó. “Đức” là năng lực, “tướng” là tướng hảo. Chúng sanh trí tuệ năng lực tướng hảo không hề khác biệt với tất cả chư Phật, cho nên tất cả chúng sanh vì sao không phải là Phật. Bạn thấy chúng sanh là Phật là thật chính xác, không hề thấy sai.

Vấn đề là “chỉ bởi vọng tưởng, chấp trước mà không thể chứng đắc”. Họ không biết chính mình là Phật, không hề biết trí tuệ năng lực của mình giống y như chư Phật Như Lai. Phật giúp đỡ họ giác ngộ, đến khi họ bỗng nhiên tường tận, bỗng nhiên khai ngộ thì chứng đắc. Phật có độ chúng sanh không? Ngài không độ, mà họ tự ngộ ra, tự tường tận. Phật không có năng lực bảo họ tường tận. Phật chỉ có thể dạy, khai thị, còn ngộ nhập là việc của chúng sanh, Phật không làm được. Cho nên tất cả chúng sanh thành Phật là do tự ngộ tự chứng, Phật không phải công thần. “Độ vô lượng vô biên chúng sanh nhưng thật ra không có chúng sanh đáng được độ. Lời Phật nói mỗi câu đều chân thật, là do chính mình độ chính mình. Phật chỉ làm tăng thượng duyên cho chúng ta mà thôi. Bạn xem thấy thân nhân duyên, sở duyên, vô gián duyên đều là chính mình đầy đủ. Phật chỉ làm tăng thượng duyên.

Sau khi “giải tự tại” mới có thể vì tất cả chúng sanh ứng cơ nói pháp. Các vị học giảng kinh, đương nhiên bước đầu công phu của các vị vẫn chưa vào được cảnh giới này, trí tuệ chưa khai mở. Các vị giảng kinh vẫn còn phải chuẩn bị, vẫn rất khổ cực. Khi vào được cảnh giới thì giảng kinh không cần chuẩn bị nữa.

Không chuẩn bị cũng không hẳn không chuẩn bị. Phương pháp chuẩn bị như thế nào? Hoàn toàn giống các vị, đó là niệm Phật. Tâm cùng tâm Phật tương ưng, nguyện cùng nguyện Phật tương ưng, đức cùng đức của Phật tương ưng, hành tương ưng với hành Thì khi bạn lưu xuất ngôn ngữ, tự nhiên liền tương ưng với kinh. Nếu bạn không chuyển đổi cảnh giới thì bạn không thể làm được, bạn vẫn phải cần cù cố gắng mà chuẩn bị. Không vào cảnh giới thì công tác chuẩn bị của bạn có làm cả đời cũng không xong, rất khổ.

Bạn nên hiểu phương phápchân thật y giáo tu hành. Loại chuẩn bị kinh giáo này theo tôi nhiều nhất là mười năm. Sau mười năm mà còn phải chuẩn bị kinh giáo, thì coi như bạn đã không tu hành. Nếu có tu hà tất phải chuẩn bị? Đã tu hành thì khi mở quyển kinh ra, mọi thứ đều là tâm hạnh của chính mình, làm gì có chuyện không thể nói ra. Việc này thông thường chúng ta gọi là “tứ vô ngại biện tài”. “Vô ngại biện tài” do đây mà có, đều là đức năng của tự tánh vốn đủ.

Thứ bảy là “nguyện tự tại”. Hữu cầu tất ứng thì nguyện mới tự tại. Nếu cầu không được thì không tự tại. Khi tôi bắt đầu học Phật, thân cận đại sư Chương Gia. Ngài dạy tôi: “Phật thị môn trung, hữu cầu tất ứng”. Tôi nghe rất hoan hỉ. Sau đó, Ngài lại nói, có lúc chúng ta cầu nhưng không cảm ứng. Cầu không cảm ứng do nguyên nhân gì? Bởi vì bạn có nghiệp chướng. Bạn cần phải tìm ra nghiệp chướng của mình và tiêu trừ nghiệp chướng thì cảm ứng liền hiện tiền. Nhờ lời dạy của đại sư Chương Gia, ngay đời này của tôi được đại thọ dụng, hơn bốn mươi năm đến nay rất hiệu quả, cho nên tôi tin tưởng sâu sắc không hoài nghi. Một số người niệm Phật, học Phật nhưng không tin tưởng Phật Bồ Tát, cho rằng làm gì có chuyện “hữu cầu tất ứng”, làm gì đơn giản đến vậy, nên mỗi lần họ cầu luôn không tương ưng, cầu không được rồi khổ. Họ không biết cái mong cầu của họ không đúng lý, không đúng pháp. Cầu có đạo lýphương pháp của cầu. Hiểu đạo lý, hiểu phương pháp thì hữu cầu tất ứng.

Đồng tu ở Singapore nếu tỉ mỉ quan sát cũng có thể thấy minh chứng. Cư sĩ Lý Mộc Nguyện ở đạo tràng này đích thực hữu cầu tất ứng. Tòa lầu bên cạnh từ khi xây dựng, ông khởi mong cầu quả nhiên có ứng. Đúng lý đúng pháp mà cầu, ông mong cầu giảng đường thì liền có giảng đường, cầu niệm Phật đường thì liền có niệm Phật đường, đều cảm ứng.

Như lý là cầu vì chúng sanh. Vì chính mình mà cầu sẽ không cảm ứng, tại sao? Do Phật Bồ Tát không bao giờ giúp bạn tăng thêm tham sân si, làm như vậy là Phật Bồ Tát có lỗi với bạn, có lỗi với người. Bạn không vì chính mình, không tham-sân-si, mà bạn vì Phật pháp trường tồn thế gian, vì tất cả chúng sanh được độ thì sự mong cầu này là chuẩn xác. Cùng với chư Phật Bồ Tát, long thiên hộ pháp đồng tâm đồng nguyện, họ làm sao không giúp đỡ bạn. Cho nên, nếu khởi một ý niệm riêng tư tồn tại sẽ không có cảm ứng, bạn cầu không được.

Rất nhiều đồng tu đến đây từ nhiều quốc gia khu vực. Khi thấy mặt tôi, đều yêu cầu tôi bỏ ra một ít thời gian đến chỗ của họ giảng kinh, có được cảm ứng hay không? Không cảm ứng. Họ vì tâm riêng tư của họ, vì thuận tiện cho họ, vì cái đạo tràng nhỏ của họ nên họ không có cảm ứng. Ngày trước, các vị đến tìm tôi, vừa tìm thì tôi lập tức đáp ứng, chỉ vài ngày, tôi bay nhảy bôn ba khắp nơi, do nguyên nhân không có đạo tràng để tôi giảng kinh nên đành phải đi khắp nơi kết pháp duyên. Hiện tại đã có một đạo tràng giảng kinh, nếu còn chạy lung tung nữa thì đặc biệt sai lầm. Khi chưa có đạo tràng, chúng ta cần đi lại nhiều nơi, rộng kết pháp duyên với người sơ học.

Pháp duyên của tôi rất thù thắng do đã bôn ba mấy mươi năm đến khắp nơi để kết duyên với mọi người. Hiện tạiđạo tràng thì phải cố gắng nghiêm túc giảng một bộ kinh. Rất nhiều người trong nhiều năm đến nay đều yêu cầu tôi giảng bộ kinh Hoa Nghiêm. Kinh Hoa Nghiêm quá dài mà ngày trước không tìm được nơi chốn, không có hoàn cảnh an định. Ngày nay đã có hoàn cảnh an định, được nhiều người yêu cầu nên tôi phải đáp ứng nguyện vọng. Tôi cố gắng ở đây giảng một bộ kinh. Nếu các vị mời tôi thì đợi tôi giảng xong bộ kinh này, tôi sẽ đi dạo với các vị. Tiến độ giảng kinh là hai giờ đồng hồ giảng hai ba câu. Kinh Hoa Nghiêm cũng vậy. Tôi vốn dĩ dự tính năm năm giảng xong bộ kinh Vô Lượng Thọ này; nhưng khi tính thử thì e rằng mười lăm năm giảng vẫn chưa xong. Hỏi ý kiến thì mọi người đều thích cách giảng hiện tại, vậy không còn cách nào. Hy vọng mọi người đều vô lượng thọ. Chúng ta vô lượng thọ, dần dần sẽ giảng xong bộ kinh. Đây là nguyện tự tại, có nguyện ắt thành.

Thứ tám là “thần lực tự tại”, đối với tất cả pháp đều thông đạt, thần kỳ siêu việt ngoài thường thức của người thường. Loại năng lực này đương nhiên phải trải qua công phu tu hành, khai mở trí tuệ, học rộng nghe nhiều. Bạn phải thường tiếp xúc tất cả người và sự vật thì mới hiểu rõứng phó. Khi sơ học chưa thể vì phải một môn thâm nhập để tương ưng định huệ của chính mình. Định là có chủ tể, không bị cảnh giới bên ngoài dao động. Bạn có định, có huệ thì bạn có thể phân biệtchân vọng, tà chánh, phải quấy, thiện ác. Khi đạt loại năng lực này liền học rộng nghe nhiều, thế xuất thế gian pháp đều phải xem lướt qua, phải nhận biết để ra ngoài giảng kinh nói pháp mới giúp đỡ tất cả chúng sanh.

Trong lúc giảng kinh nói pháp, nhiều người quan tâm đến vấn nạn, phiền phức. Nếu bạn có năng lực vì họ giải đáp thì không những hàng phục họ mà còn có thể hóa đạo họ. Những người này thường rất tự phụ, tự cho mình thông minh, thường hay đưa ra chủ đề khó nhằm gây phiền phức cho pháp sư, khiến pháp sư không thể rời giảng đài, còn họ ngồi bên dưới cười nhạo. Cho nên thường thức thông thường nhất định phải biết, sau đó bạn mới có thể được thần lực tự tại.

Thứ chín là “pháp tự tại”. Pháp tự tại chỉ biện tài. Được đại biện tài có thể rộng diễn vô lượng pháp môn.

Sau cùng là “trí tự tại”. Bồ Tát trí tuệ đầy đủ ở ngay một niệm triển hiện ra loại trí tuệ năng lực đại vô uý.

Mười loại thảy đều đầy đủ mới gọi là “tối thắng tự tại”. Mặc dù ở đây nói trên quả địa Như Lai tự tại tối thù thắng, nhưng chúng ta cũng phải học tập, đem cảnh giới của Như Lai quả địa biến thành cảnh giới đời sống của chúng ta thì chúng ta mới có thọ dụng. Tuy không thể đạt đến trình độ của họ nhưng trình độ thấp hơn cũng được. Tuy không thể viên mãn nhưng học tập phần ít cũng tốt. Cuộc sống thường ngày của chúng ta đích thực tự tại.

Tóm lại, “nơi tất cả pháp tối thắng tự tại” trong khoa chúng ta gọi là “giải thoát đức”, chỗ này ba đức đều hiển lộ cho chúng ta. Phần trước, “giác trí nan lượng” là Bát Nhã đức, còn chỗ này hiện rõ giải thoát đức. Trong Bát Nhã giải thoát hàm chứa pháp thân tự tại.

A NAN ĐẾ THÍNH, THIỆN TƯ NIỆM CHI, NGÔ ĐƯƠNG VỊ NHỮ, PHÂN BIỆT GIẢI THUYẾT

Tôn giả A Nan khải thỉnhThế Tôn hứa khả đáp ứng. Trước khi giảng kinh, Phật đặc biệt dặn bảo ông “đế thính”. “Đế thính” là chú tâm nghe tỉ mỉ. “Thiện tư niệm chi”, tư niệm lại thêm chữ “thiện”, sự khác biệt ở đây rất lớn. Người thế gian thông thường tư niệm là dùng ý thức. Thêm vào chữ “thiện” là không dùng ý thức, vậy mới gọi là thiện. Trong thiền tông, lìa tâm ý thức mà tham nên gọi là tham cứu, chứ không gọi “nghiên cứu”. Nghiên cứu là dùng tâm ý thức. Giáo hạ cũng không ngoại lệ, nên kinh Phật dặn bảo những người đương cơthiện tư niệm chi” là hãy lìa tâm ý thức.

Không lìa tâm ý thức, bạn sẽ không khai ngộ. Thiện tư niệm chi là có ngộ. Sau khi bạn nghe, thể ngộ được cảnh giới mà Phật đã nói, không rơi vào phân biệt chấp trước, đó gọi là thiện tư niệm. Câu kinh này vô cùng quan trọng. Nghiêm khắc mà nói, không biết nghe kinh thì “tư niệm chi”, còn biết nghe kinh thì “thiện tư niệm chi”, chúng ta phải đặc biệt lưu ý.

Kinh văn phía sau là phần chánh tông của quyển kinh. Chúng ta đã dùng thời gian tương đối dài làm rõ thông tựa, biệt tựa của kinh. Hai phẩm đầu là thông tựa, phẩm thứ ba là tựa của bổn kinh. Biệt tựa gọi là phát khởi tựa, phát khởi chánh văn toàn kinh. Chúng ta thấy rõ ràng trong văn tự, phát khởi kinh này do tôn giả A Nan thưa hỏi, Thế Tôn vì ông mà giải thích.

Trong lời tựa phát khởi, người xưa cho biết có năm loại ý nghĩa.

Thứ nhất, Thế Tôn phóng quang hiện tướng lạ nhằm tăng cường tín tâm cho chúng ta. Tu học Phật pháp then chốt thành côngxây dựng nền tảng tín tâm, đặc biệt đối với pháp môn Tịnh Độ. Đại sư Ngẫu Ích giảng ba tư lương của Tịnh Độ, không thể thiếu một điều kiện nào. Ba điều kiện là tín-nguyện-hạnh.

Tín đứng đầu tiên. Đoạn này đích thực giúp chúng ta kiên định tín tâm. Thế Tôn niệm A Di Đà Phật, được Phật A Di Đàmười phương tất cả chư Phật Như Lai gia trì nên màu sắc hôm nay mới đặc biệt đẹp. A Nan tuy là thị giả nhưng từ trước đến giờ chưa từng thấy qua sắc tướng Thế Tôn đẹp như vậy. Chỗ này chứng minh cho chúng ta một sự thật về “tướng tùy tâm chuyển” mà ngay cả Thích Ca Mâu Ni Phật cũng không ngoại lệ. Thế Tôn tưởng A Di Đà Phật nên sắc tướng trang nghiêm không gì bằng. Nếu Ngài không tưởng A Di Đà Phật thì sắc tướng đó có lẽ sẽ kém hơn một chút.

Chúng ta một ngày từ sớm đến tối niệm Phật, dung mạo dần dần cũng sẽ giống A Di Đà Phật. Đây là đạo lý nhất định cho sự kiên định tín tâm của chúng ta.

Thứ hai, A Nan làm đại biểu cho chúng ta. A Nan xem thấy Thích Ca Mâu Ni Phật tướng hảo quang minh liền sanh tâm hoan hỉbước ra thưa hỏi. Thỉnh giáo lúc này gồm hai ý nghĩa. Ý nghĩa thứ nhất là ngày nay Phật sắc tướng đặc biệt, nhất định trong lòng có ý niệm đặc biệt, bởi vì Phật thường hay nói “cảnh tùy tâm chuyển”, A Nanđại chúng đương nhiên đều quen thuộc. Thân thể của chúng tacảnh giới gần nhất, trong lòng có bất cứ ý niệm gì đều không thể giấu được cơ thể, đều hiện ra trên khuôn mặt. Người tâm ý qua loa không nhìn ra, nhưng người tâm ý tỉ mỉ vừa nhìn sẽ rõ ràng, đặc biệt người tu hành. Người tu hànhcông phu vừa nhìn thì hiểu rõ, thậm chí không cần nhìn trực tiếp mà nhìn tấm hình cũng hiểu. Bạn đưa mười tấm hình cho họ xem, trên tấm hình này bạn khởi ý niệm gì, tấm hình kia bạn khởi ý niệm gì, có thể cố giấu trên khuôn mặt nhưng không thể giấu được cơ thể.

Thế Tôn tâm trụ đặc kỳ pháp nên Ngài hiện ra tướng đặc biệt. Vì vậy A Nan nghĩ Phật nhất định đang niệm Phật. Tại sao A Nan hỏi ý này? Không phải người thông thường có thể hỏi được. Nếu chúng ta xem thấy Thích Ca Mâu Ni Phật hiện tướng lạ, nhiều nhất là trong lòng hoan hỉ chứ không nói được câu nào. Do đây mà thể hội, A Nan không phải người thông thường mà A Nan cũng là chư Phật Bồ Tát, Pháp Thân Đại Sĩ thị hiện. Các Ngài đến để hát xướng hoặc biểu diễn. Hội kinh Vô Lượng Thọ cùng Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm không hề khác nhau, đều là chư Phật Như Lai, Pháp Thân Đại Sĩ đến biểu diễn, cho nên Ngài mới có thể hỏi ra. Nếu là chúng sanh trong mười pháp giới thì căn tánh khác biệt với chư Phật Như Lai, không hiểu rõ chân tướng sự thật, làm sao có thể hỏi? Đó là ý nghĩa thứ hai.

Thứ ba, khi A Nan vừa hỏi, Thích Ca Mâu Ni Phật đặc biệt tán thán ngài. Vừa hỏi thì công đức không thể nghĩ bàn. Phật nói một câu rất quan trọng: “Đương lai nhất thiết hàm linh, giai nhân nhữ vấn, nhi đắc độ thoát”. Chúng ta quyết không thể xem thườnglướt qua. Câu nói này vô cùng quan trọng, nêu lên một sự thậtchúng sanh chín cõi mười phương ba đời sẽ nhân pháp môn này mà được độ. Các vị hãy tỉ mỉ nghĩ lại. Tất cả pháp môn khác tuy có thể được độ nhưng không chắc chắn. Chỉ có pháp môn này hoàn toàn khẳng định, không chút hoài nghi. Trừ khi những chúng sanh không có phước phận hoặc không có duyên nên ngay một đời không thể gặp, vậy không còn cách nào. Có duyên phận gặp được, không luận bạn thiện căn dày mỏng, chỉ cần bạn tin, nguyện, chịu niệm A Di Đà Phật thì bạn quyết sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, ngay một đời quyết thành Phật. Nghĩ lại xem, pháp môn này thù thắng cỡ nào!

Vào thời đại Tùy Đường, đại đức xưa nói, Hoa NghiêmPháp Hoa đều là chỉ đạo của bổn kinh. Câu nói không hề quá đáng. Người nói là người tái sanh, vì nếu không phải người tái sanh thì không thể nói ra được.

Thứ tư, Phật lại nói với A Nan: “Như Lai chi sở dĩ xuất thế, tựu thị vi liễu, dục chẩn quần minh, huệ dĩ chân thật chi lợi”. “Huệ” là cho họ, còn “quần minhđặc biệt chỉ chúng sanh sáu cõi, nếu mở rộng phạm vi một chút thì là mười pháp giới. Mười pháp giới đều chưa kiến tánh, tuy ra khỏi sáu cõi. Thanh văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật trong mười pháp giới chưa kiến tánh, vậy Phật làm gì để giúp đỡ họ? Cho họ lợi ích chân thật qua hồng danh sáu chữ và kinh Vô Lượng Thọ. Ngày nay chúng ta gọi là pháp bảo. Pháp bảo vô lượng vô biên nhưng kinh này là pháp bảo đệ nhất, dù hiện tại vẫn còn một số người không thể tiếp nhận bổn hội tập của Hạ Lão cư sĩ. Vì sao họ không thể tiếp nhận? Có hai nguyên nhân, một loại là trí tuệ không đủ nên không thể tiếp nhận; hai là thành kiến quá sâu, tôn trọng nguyên bản dịch và xem thường bổn hội tập.

Trong vãng sanh truyện, ban đầu cư sĩ Vương Long Thư hội tập. Cư sĩ Long Thư vãng sanh, trong vãng sanh truyện có Ngài. Hội tập lần thứ hai là cư sĩ Nguỵ Mặc Thâm, trong vãng sanh truyện cũng có Ngài. Ngay đến bản tiết hiệu của Bàng Tế Thanh, trong vãng sanh truyện cũng có Ngài. Hạ Liên Cư là người hội tập sau cùng, trong Cận Đại Vãng sanh truyện của pháp sư Khoan Luật có Hạ Liên Cư. Họ thảy đều vãng sanh, đều ở thế giới Cực Lạc. Bạn cực lực bài trừ phản đối, tương lai đến thế giới Tây Phương Cực Lạc gặp Hạ lão thật cảm thấy rất hổ thẹn. Chỉ sợ bạn đi không được, nhưng nếu có thể đi thì khi gặp mặt thật hổ thẹn. Cho nên chúng ta nhất định phải rõ lý.

Trong lời tựa, cư sĩ Mai Quang Huy viết một lời tựa dài hy vọng mọi người đều tiếp nhận quyển hội tập. Lời tựa nói rất hay, theo bổn kinh Vô Lượng Thọ thì Phật pháp sau chín ngàn năm nữa sẽ hoàn toàn diệt mất, nhưng riêng kinh Vô Lượng Thọ vẫn lưu truyềnthế gian thêm một trăm năm. Cụ Mai cho rằng, tương lai quyển kinh được lưu hành nhất định chỉ là quyển hội tập này. Chúng tatin tưởng không? Bản thân tôi tin tưởng. Vì rất nhiều quyển thảy đều mở ra nhưng quyển này rất dễ đọc, dễ hiểu. Chín nguyên bản dịch bày ra trước mắt, bạn nhất định sẽ chọn quyển này, tương lai sẽ lưu thông đến pháp diệt tận. Thực ra, các quyển khác không tệ, cũng rất tốt, nhưng khi đọc thì không thuận miệng, ý nghĩa xa lạ, không được viên dung. Chỗ nào trong nguyên bản dịch không rõ nghĩa thì họ đều lấy chỗ này thay vào cho dễ hiểu, hơn nữa ý nghĩa lại rất hoàn chỉnh, đó là do biên tập sắp xếp, tổng hợp mới lại. Hạ lão đã dùng thời gian mười năm hoàn thành quyển hội tập. Ngày nay, ở Đại Lục, có rất nhiều người tiếp nhận thọ trì đọc tụng, chúng ta xem thấy cũng rất hoan hỉ.

Thứ năm, chư Phật Như Lai đều biết, pháp môn này là pháp khó tin ở thế gian. Pháp khó tin là lời nhận xét của Phật, nên Thế Tôn sau cùng tự mình nói: “Như Lai giác trí nan lượng thần thông vô ngại, định huệ cứu sướng vô cực ư pháp tự tại”. Những lời nói của Thế Tôn quyết không khoa trương, vạn nhất không nên nghi hoặc. Nếu nghi hoặc thì lợi ích thù thắng không gì bằng sẽ bị lỡ qua trước mắt, vô cùng đáng tiếc. Cho nên sự phát khởi ở bổn kinh đích thực tăng thêm tín tâm, nguyện tâm cho chúng ta. Đại sư Ngẫu Ích liệt kê trong Yếu Giải là Tín-Nguyện-Trì Danh. Trì danh là hành. Ba điều kiện không thể thiếu một. Xây dựng tín tâm xếp ở hàng thứ nhất.

Ở phần tựa kinh, Phật nói ra trước: “Khai hoá hiển thị chân thật chi tế”, nếu dùng lời hiện đại thì chính là khai hóa hiển thị chân tướng của vũ trụ nhân sanh. Tác dụng của bộ kinh Vô Lượng Thọ là “huệ dĩ chúng sanh chân thật chi lợi”. Phật nói ra chân tướng sự thật của vũ trụ nhân sanh, rất đáng được chúng ta tin tưởng. Phật mang đến cho chúng ta lợi ích chân thật. Mỗi câu mỗi chữ đều là lời vàng ngọc, chúng ta phải tỉ mỉ thể hội. Phần tựa quan trọng nhất là chân tín, chúng ta ngay chỗ này phải xây dựng tín tâm, tuân theo giáo huấn của Phật.

Phật bảo: “A Nan, hãy lắng nghe”. A Nanđại diện cho chúng ta, nên trên thực tế, Phật bảo chúng ta phải lắng nghe. “Thiện tư niệm chi”, tức bạn phải khéo thể hội, không dùng tâm ý thức, không cần phân biệt, càng không nên chấp trước nó. Bạn phải dụng tâm mà thể hội thì bạn mới có chỗ ngộ. Chỗ ngộ giúp bạn nhìn thấu buông bỏ, một lòng chuyên niệm. Một lòng chuyên niệm chính là tu hành. Không luận bất cứ lúc nào, bất cứ trường hợp nào, trong lòng luôn chỉ một câu A Di Đà Phật, ngoài A Di Đà Phật ra buông bỏ vạn duyên.

Nhất định phải biết, thiện duyên, ác duyên thế gian đều là một mảng không. Kinh Kim Cang cho biết rất rõ ràng: “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng, nhất thiết hữu vi pháp như mộng huyễn bào ảnh”. Phân biệt mà còn không thể thì làm sao có thể chấp trước? Lìa khỏi vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, chân tâm của bạn liền hiện tiền. Chân tâmtâm Phật, cũng là bổn tánh của bạn. Nói “chân tâm hiện tiền” chính là trong chân tâm bạn đầy đủ trí tuệ đức tướng, tất cả đều hiện bày, bạn mới chân thật được thọ dụng. Cho nên Thế Tôn trên kinh điển, mỗi câu mỗi chữ chúng ta phải đặc biệt lưu ý. Kinh Phật không có chữ nào thừa. Cái đẹp của văn tự kinh điển là tổ chức kết cấu nghiêm mật, các vị có thể thấy rõ ràng trong “khoa hội”.

Phán khoa” ở khoá bồi dưỡng thứ hai chúng ta hướng dẫn cho các đồng tu. Chúng ta cùng nhau chế định, đương nhiên không thể nói chúng ta có thể phân được tốt nhất, đây chỉ là bước đầu nêu ra để mọi người cùng tham khảo. Bạn thấy “khoa phán” phân kinh của đại đức xưa, chú giải của mỗi nhà với mỗi cách phân không như nhau. Quyển kinh Vô Lượng Thọ vào thời trước có “khoa phán” của pháp sư Từ Chu. Pháp sư Từ Chu dùng quyển hội tập ban đầu của Hạ Lão. Lúc đó, quyển này tổng cộng có ba mươi bảy phẩm, nên phán khoa của pháp sư Từ Chu là ba mươi bảy phẩm.

Về sau Hạ Lão đem tu sửa, bổ sung mười lần và phân thành bốn mươi tám phẩm. Theo thiết nghĩ của chúng ta, ban đầu Ngài phân nó thành ba mươi bảy phẩm, đại khái dùng Ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Sau đó lại phân thành bốn mươi tám phẩm, tương đương bốn mươi tám nguyện của A Di Đà Phật. Do đây mà biết, “phán khoa” của một bộ kinh chính là phân đoạn, gồm đoạn lớn, đoạn vừa, đoạn nhỏ; tuyệt nhiên không nhất định. Mỗi người có một cách nhìn riêng nhưng đều có thể nói ra cả tràng đạo lý, vậy thì tốt. Điều này cũng chứng minhpháp không có định pháp. Đạo lý này nhất định phải hiểu, quan trọng nhất là phải hiểu ý nghĩa của nó. Người xưa đã nói giáo lý giáo nghĩa, bạn phải thông đạt giáo lý, giáo nghĩa thì mới có thọ dụng.

Pháp Ngữ

Hồi hướng là chính mình tu học thiện căn công đức quyết không phải chính mình hưởng thụ. Nếu như chính ta tu học được thiện căn công đức, nhất định muốn chính mình thành tựu, không chịu giúp người khác, thì tâm của bạn vẫn là tâm luân hồi. Không luận tu pháp môn nào là vì chính mình, niệm Phật cũng là vì chính mình, tham Thiền cũng là vì chính mình, trì chú cũng là vì chính mình, mỗi niệm đều không quên đi chính mình là tâm luân hồi. Bạn tu tích được tất cả công đức, đó không gọi là công đức mà gọi phước đức, quả báophước báo hữu lậu của ba cõi. Cho nên cái gì là công đức? Không có chính mình, bao gồm tất cả tu học đều là vì chúng sanh, đây chính là tâm hồi hướng. Vì chúng sanh mà tu, không phải vì chính mình, vì Phật pháp mà tu, vì Phật pháp cửu trụ thế gian, vì tất cả chúng sanh được lợi ích Phật pháp. Ta vì những việc này mà sống, quyết không phải vì chính mình, vậy mới đem tâm luân hồi chuyển đổi thành tâm Bồ Đề.”

VĂN SÁM HỐI

A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, A Di Đà Phật! Chúng tôi đứng trước Phật, thay cho người thân chúng tôi là ………, đem tâm chân thành, tâm sám hối hướng về quí Ngài – những oan gia trái chủ nhiều đời nhiều kiếp cầu xin sám hối! Từ xưa đến nay, người thân của chúng tôi …………, do ngu muội không biết, đã tạo ra những hành vi tội lỗi từ thân, khẩu, ý khiến cho quí Ngài phải chịu biết bao đau khổ. Ông ta hiện nay đã chịu khổ báo rồi. Oan oan tương báo, không bao giờ dứt. Chúng tôi thật tâm khẩn cầu và hy vọng quý Ngài buông xả oán hận, nhất tâm cùng với mọi người xưng niệm A Di Đà Phật cầu sanh Tịnh Độ, cầu xin Phật A Di Đà đại từ đại bi, dùng Phật lực gia trì, tiếp dẫn quí Ngài cùng vãng sanh Tịnh Độ, lìa khổ được vui, hoa khai kiến Phật, vĩnh viễn thoát khỏi luân hồi. A Di Đà Phật! A Di Đà Phật, A Di Đà Phật!

( Xin điền tên của người bệnh vào ch ……..)

LỢI ÍCH CỦA VIỆC HỒI HƯỚNG

Mỗi người đều biết rằng, làm việc thiện sẽ được quả báo tốt. Hơn nữa hy vọng có thể nhận được lợi ích phước báo từ trong những thân thiện đó.

Công đức niệm Phật đúng là sẽ mang lại quả báo thù thắng tối thượng. Cổ đức trong nhà Phật đã từng dạy chúng ta, niệm Phật là nhân, thành Phật là quả. Phàm là người trì Phật hiệu, hoặc là nghe qua một câu hiệu A Di Đà Phật, khi thiện căn, phước đức, nhân duyên của chủng tử kim cang này ở trong đời nào hoặc kiếp nào đó chín muồi, thì chúng sanh sẽ được chủng tử Phật đó niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, liễu thoát sanh tử, vĩnh viễn thoát khỏi biển khổ luân hồi. Cho nên, nếu muốn đem công đức niệm Phật đó hồi hướng cho người bệnh hoặc người qua đời, thì cũng giống như cầu nguyện cho người trong gia đình được vãng sanh Tịnh Độ, lìa khổ được vui, thành Phật làm tổ, vĩnh viễn thoát khỏi luân hồi. Họ sẽ nhân pháp duyên thù thắng đó mà được độ thoát. Nếu như người trong gia đình có thể dùng chân tâm thiết nguyện ở bên cạnh người bệnh hoặc người lúc sắp mạng chung, vì người nhà mà trợ niệm A Di Đà Phật và dùng công đức niệm Phật đó hồi hướng cho người bệnh hoặc người sắp mạng chung, thì họ sẽ vì sức thành tâm niệm Phật của mọi ngườichiêu cảm được sự phù hộ của chư Phật, tương ứng với sức bi nguyện lớn của Phật A Di Đà, nương theo lực gia trì của Phật, được Phật đích thân đến tiếp dẫn vãng sanh về cõi Phật. Công đức niệm phật hồi hướng như thế là không thể nghĩ bàn! Phải dùng cách thức như vậy giúp đỡ quyến thuộc trong gia đình mới là đại hiếu, mới là lợi ích công đức đại viên mãn. Mong mọi người làm theo chẳng nên nghi ngờ.

A Di Đà Phật!

VĂN HỒI HƯỚNG

Nguyện đem công đức niệm Phật này, hồi hướng cho ………… và oan gia trái chủ nhiều đời nhiều kiếp của …………., thiện căn được tăng trưởng, nghiệp chướng được tiêu trừ, cởi bỏ oan kết, phát tâm bồ đề, cầu sanh Tịnh Độ, lìa khổ được vui, hoa khai kiến Phật, vĩnh viễn ra khỏi luân hồi, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường, nếu có người nghe thấy, đều phát tâm bồ đề, hết một báo thân này, cùng sanh về cõi Cực lạc. A Di Đà Phật! A Di Đà Phật! A Di Đà Phật

(Xin điền tên của người được hồi hướng vào ch …………)

Sanh tử lục đạo luân hồi khổ

Vãng sanh tịnh độ làm Phật Tổ

KỆ HỒI HƯỚNG

Nguyện đem công đức này

Trang nghiêm Phật Tịnh Độ

Trên đền bốn ơn nặng

Dưới cứu khổ ba đường

Nếu có người nghe thấy

Đều phát tâm bồ đề

Hết quyển 3 (Còn tiếp ...)

KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC

Pháp sư: HT. TỊNH KHÔNG

Biên dịch: Vọng Tây cư sĩ

Biên tập: PT. Giác Minh Duyên

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32343)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6395)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11026)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30189)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30269)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7860)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 11962)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12129)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11450)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12480)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34281)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9668)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52060)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10579)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10331)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10535)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10311)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12905)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16009)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21601)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9491)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 6983)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10260)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12447)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12614)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16067)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16325)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13686)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16328)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11885)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13650)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14199)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9088)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11635)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11162)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16046)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14213)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16049)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12579)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11903)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11637)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15518)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11360)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13875)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11859)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12413)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14786)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11834)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 12969)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14302)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20447)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13048)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10822)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20523)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14182)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20075)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17393)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13792)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31687)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11879)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant