Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phần 57

09 Tháng Giêng 201511:49(Xem: 11240)
Phần 57


KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 57)

 

Pháp Sư Tịnh Không

Ba La Mật Đa thông thường chúng ta dịch là “độ”, đơn giản gọi là lục độ, bố thí độ. Bố thí độ là gì? Đoạn phiền não. Đoạn loại phiền não nào? Phiền não xan tham, đoạn dứt lòng tham ái, đoạn dứt lòng bỏn xẻn, đây mới gọi là bố thí Ba La Mật. Phật dùng việc này để làm phương tiện giáo học, vì sao vậy? Tham là đại phiền não, phiền não ba độc. Tham-sân-si gọi là ba độc. Tất cả chúng sanh đều có lòng tham ái, thuận theo ý của mình thì đều sanh tham ái. Đối tượng của tham áinăm dục sáu trần. Năm dục là tài, sắc, danh, thực, thùy; sáu trần là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, tất cả những đối tượng mà bạn tham thích đều bao gồm ở trong đó. Bạn tham những thứ này, bạn khởi lên phiền não này rồi, cho nên bạn không thể ra khỏi sáu cõi luân hồi, bạn phải tạo nghiệp thọ báo. Chư Phật Như Lai các Ngài có trí tuệ chân thật cứu cánh viên mãn, các Ngài hiểu rõ, các Ngài dùng phương pháp giúp bạn đoạn phiền não. Bạn đoạn phiền não rồi thì bạn mới có thể ra khỏi sáu cõi luân hồi, vậy mới gọi là bạn chân thật được độ, bạn từ bố thí được độ. Bố thí được phước, đó chỉ là việc ngoài da không đáng kể. Cái phước này có thể hưởng hay không? Quyết định không thể hưởng, vì sao vậy? Vừa hưởng cái phước này thì lại đoạ lạc. Bạn có tu bố thí Ba La Mật Đa, sau bố thí bạn vĩnh viễn không thể có được. Cho nên, người học Phật chúng ta hiểu rõ những chân tướng sự thật này, tường tận đạo lý này, chúng ta tu ba loại bố thí, phước báo có được có thể hưởng hay không? Không thể hưởng. Cho nên Phật dạy chúng ta “xả đắc”. Xả là bố thí, bố thí rồi thì có đắc, đắc rồi thì thế nào? Đắc rồi thì vẫn phải xả, đem cái bạn có được thảy đều xả hết. Ý nghĩa của hai chữ xả đắc này rất sâu. Ý nghĩa cạn là bạn có xả thì liền có đắc, bạn xả nhiều thì sẽ được nhiều, thế nhưng cái bạn có được vẫn phải xả ra, quyết định không thể thọ dụng. Chúng ta xem thấy Bồ Tát chân thật làm như vậy.

Cư sĩ Lý Mộc Nguyên hiện thân nói pháp cho chúng ta, mọi người đều xem thấy. Từ trước đến giờ, ông ấy đến quán nào để ăn cơm? Khi ông đói, lấy chén, lấy đĩa, chỉ cần hai ba đồng thì giải quyết được bữa cơm rồi, đó là gì vậy? Bố thí có phước nhưng không hưởng, cái phước này phải để mọi người hưởng, phước báo này của bạn mãi mãi tích lũy nơi đó, tích công bồi đức. Người thông thường một mặt tu, một mặt xài hết, cho nên đến khi chết không có chút công đức nào. Công đức không có, phước đức cũng không có, họ mới đọa vào ba đường. Người có phước báo thì làm sao mà đọa vào ba đường? Họ cả đời tu tích thì làm sao đọa ba đường? Do hưởng hết sạch phước rồi mới đọa vào ba đường.

Còn có một hạng Bồ Tát, tôi xem thấy được, các vị mọi người cũng thấy, ông đã từng đến chỗ này của chúng ta để nghe kinh, đó là cư sĩ Thôi Ngọc Tinh của Trung Quốc, một trong những doanh nhân nổi tiếng của Trung Quốc ngày nay. Ông có nhiều tiền của, lần này chúng ta mời ông ấy thay chúng ta đến khu vực bị nạn để cứu nạn, ông còn đích thân đi. Ông gọi điện thoại nói với tôi, ông ở nhà nghỉ ở khu vực bị nạn, ông nói với tôi nhà nghỉ đó mỗi ngày là mười nhân dân tệ, bạn thử nghĩ xem ông ở nhà nghỉ như thế nào? Là Bồ Tát, thật có phước mà không hưởng, phước báo cho tất cả chúng sanh cùng hưởng, cho tất cả chúng sanh khổ nạn cùng hưởng, đời sống chính mình hoàn toàn giống như những người cùng khổ. Đây là Bồ Tát chân thật, khiến người kính ngưỡng, khiến người bội phục. Khoảng tháng bảy, Hong Kong chào mừng kỷ niệm một năm. Tôi có tham gia, tôi ở bên đó giảng kinh sáu ngày, ông tranh thủ thời gian rảnh đến Hong Kong thăm tôi. Chúng tôi đặt cho ông ấy một khách sạn, phòng nghỉ thông thường. Ông vừa thấy chúng ta tiếp đãi như vậy, ông nói: “Không được đâu, không thể được, vậy là quá lãng phí, tùy tiện một nơi nào đó để cho tôi một tấm đắp thì được rồi”. Ông nói là lời chân thật, đây là Bồ Tát thật. Tu được phước chính mình quyết định không hưởng, bạn mới có thể thành tựu bố thí Ba La Mật Đa, một tí tâm tham cũng không có. Chính mình có, xem thấy người ta cần thiết, liền có thể rộng tay mà cho, quyết định không có chút tâm bỏn xẻn. Loại người này ít, thế nhưng thật có. Có mấy người chúng ta biết được, còn chúng ta không thấy được nhất định là rất nhiều. Trung Quốc đại lục đất rộng người đông, có câu là “tàng long hổ phục”, tôi tin tưởng sâu sắc có chư Phật Bồ Tát ứng hoá ở trong đó, số người quyết định không ít. Nơi chốn như vậy nhất định là một mảng sáng lạn, sẽ mang đến cho thế giới hòa bình dài lâu. Chúng ta dựa vào cái gì để nói lời này? Chư Phật Bồ Tát nhiều. Các vị chưa gặp được, các vị có gặp được cũng không nhận biết, cũng không ích gì. Cùng ở chung với bạn, ngồi ở bên cạnh bạn, bạn cũng không nhận biết, vậy có cách nào chứ?

Cho nên mục đích chân thật của bố thí là xả bỏ hết đi lòng tham lam của chính mình. Dùng tài thí, pháp thí, vô uý thí để làm phương tiện, mục đích cuối cùng là phải đoạn phiền não xan tham.

Hạng mục thứ hai là trì giới. Ý nghĩa của trì giới chỗ này là nghĩa rộng, không phải nghĩa hẹp. Đồng tu học Phật của chúng ta luôn luôn xem thấy hai chữ trì giới này liền nghĩ ngay đến năm giới, mười giới, Tỳ kheo giới, Bồ Tát giới, liền nghĩ ngay đến những giới này. Cách nghĩ này phạm vi quá nhỏ. Chữ giới ở chỗ này là răn dạy của chư Phật Như Lai, hay nói cách khác, bao gồm tất cả kinh luận, từng câu từng chữ đều là răn dạy của Phật Bồ Tát. Chúng ta phải có thể tường tận, phải đem nó làm cho được. Những giáo huấn của Phật Bồ Tát chúng ta phải thật hiểu thì chúng ta mới có thể làm đến được. Bạn không hiểu thì bạn sẽ không làm được. Người xưa thường nói, Phật nói ra tất cả kinh gọi là diệu pháp, không chỉ riêng kinh Pháp Hoa mới gọi là diệu pháp, mà một bộ kinh nào cũng đều là diệu pháp. Định nghĩa của diệu là gì vậy? Người ta giải thích được rất hay, Phật nói ra tất cả kinh đều đầy đủ Giáo-Lý-Hành-Quả, đó mới gọi là diệu. Đây cũng chính là nói, Ngài nói ra từng câu từng chữ đều nói ra được viên mãn đến như vậy, một chút kém khuyết cũng không có, đó mới gọi là diệu. Mỗi một bộ kinh đều đầy đủ Giáo-Lý-Hành-Quả. Chúng ta lại xem từ trong một bộ kinh, mỗi một phẩm cũng đầy đủ Giáo-Lý-Hành-Quả, lại tỉ mỉ xem mỗi một chương cũng đầy đủ Giáo-Lý-Hành-Quả. Như hiện tại chúng ta dùng cái quyển này gọi là “khoa chú”. Quyển “khoa chú” này, mỗi một tiểu khoa chính là mỗi một đoạn nhỏ, mỗi một đoạn nhỏ cũng đầy đủ, thậm chí đến mỗi một chữ cũng đầy đủ. Chúng ta giảng bố thí, trong hai chữ bố thí này cũng đầy đủ Giáo-Lý-Hành-Quả, trong hai chữ trì giới này cũng đầy đủ Giáo-Lý-Hành-Quả, đây mới gọi là diệu.

Chúng ta dùng phương pháp gì để tiếp nhận? Tổ sư đại đức nói với chúng ta, chúng ta phải dùng Tín-Giải-Hành-Chứng mới có thể tiếp nhận được. Ngay trong bốn chữ này, nếu thiếu một chữ thì lợi ích chân thật của Phật pháp bạn liền không thể có được, hay nói cách khác, bạn không phải chân thật học Phật. Chân thật học Phật nhất định phải đầy đủ bốn điều kiện này. Đối với lời dạy của Phật, chúng ta tin tưởng. Lời dạy chính là ngôn ngữ văn tự của Phật, tin sâu không hoài nghi. Ngài nói ra cái lý, chúng ta hiểu rõ, chúng ta có thể lý giải, “tín kỳ giáo, giải kỳ lý”. Ngài nói ra cái hành, hành là phương pháp, chúng ta phải làm theo, tu cái hạnh đó. Sau cùng là phải chứng được quả. Ngài nói ra quả báo, quả báo chính là nói công đức lợi ích thù thắng, chúng ta thật có được, đó chính là chứng quả. Như vừa rồi tôi đã nói, chúng ta xem thấy các đồng tu ở Cư Sĩ Lâm, trên dưới một loạt đều là hoan hỉ, phiền não ít đi, ý kiến ít đi, vọng tưởng ít đi, trí tuệ thêm lớn, mỗi mỗi đều hiển lộ thông minh trí tuệ, thấy mặt đều là một mực hoan hỉ, đó là quả báo. Cái gì gọi là chứng quả? Đây chính là chứng quả. Quả có lớn nhỏ, quả có cạn sâu, hiện tại chúng ta chứng được ít, chứng được cạn, thế nhưng đã chứng, chân thật đã chứng. Chỉnh thể để nói, đây gọi là tương ưng. Tương ưng chính là như pháp, chúng ta mới chân thật đạt được pháp hỉ sung mãn.

Tu học như lý như pháp gọi là trì giới. Trì giới, dùng lời hiện tại mà nói là thủ pháp, tuân thủ lý luận của Phật Đà, tuân thủ phương pháp Phật Đà dạy bảo chúng ta, chúng ta đem nó thực tiễn ngay trong cuộc sống thường ngày, chúng ta qua ngày tháng như pháp, chúng ta làm việc như pháp, chúng ta đối nhân xử thế tiếp vật ngay trong cuộc sống thường ngày đều đúng pháp, đó gọi là trì giới. Trong đây từng câu từng chữ tràn đầy trí tuệ cao độ, vì sao vậy? Nhân sự vật biến thiên quá lớn thì pháp phải có thể thích ứng. Thế pháp Phật pháp như nhau, đều phải hiểu được thông quyền đạt biến, cho nên pháp không phải là chết, mà là linh động hoạt bát. Hình thức thiên biến vạn hoá, nhưng nguyên lý quyết định không thay đổi. Nguyên lý là gì vậy? “Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, tự tịnh kỳ ý”, đây là nguyên lý. Trên phương thức thì thiên biến vạn hoá, thế nhưng quyết định không có ác niệm, quyết định không có ác hạnh, quyết địnhthiện tâm thiện hạnh. Chúng ta xem thấy ở trong Cao Tăng truyện, trong Thần Tăng truyện, có rất nhiều các tổ sư đại đức, các Ngài làm việc chúng ta không cách gì lý giải. Thế nhưng nếu bạn chân thật hiểu được Phật pháp, chân thật nhận được Phật pháp, thì bạn sẽ không hoài nghi, sẽ rất tôn kính đối với các Ngài. Các vị đối với hành trì dị lạ của các đại đức xưa, các vị đều biết có Tế Công, tại vì sao biết được? Có lưu truyền Tế Công truyện, nếu như không có Tế Công truyện thì các vị ai biết được chứ? Có người hành trì giống như Tế Công Trưởng Lão rất nhiều, ở trong Cao Tăng truyện xem thấy mấy mươi người. Đầu năm dân quốc, pháp sư Diệu Thiện Kim Sơn, tên giống hoàn toàn như lão Hòa thượng Phổ Đà Sơn hiện tại, mà không phải một người, vị Diệu Thiện đó cùng Tế Công Hoạt Phật gần như nhau. Bạn xem thấy ông cũng khùng khùng điên điên, đó là thánh tăng, không phải phàm phu. Hành vi dị lạ của họ, Tế Công trưởng lão ngày ngày uống rượu ăn thịt, chúng ta xem thấy ông phá giới, người thông thường xem thấy ông phá giới, đuổi ông đi ra khỏi chùa không cần ông. Ông là Bồ Tát hoá thân, hành vi tạo tác của ông là có dụng ý, là để độ một loại chúng sanh nào đó. Cho nên chư Phật Bồ Tát ứng hoá thân phận không như nhau, hành trì không giống nhau. Chúng ta xem thấy trong 53 vị đồng tham, những nhân vật liệt kê trong Cao Tăng truyện, chúng ta dùng 53 tham để đối chiếu, đều có thể liệt kê vào loại nào, loại nào. Đều có thể liệt kê vào thì mới biết được đây gọi là đại quyền thị hiện, thành tựu chúng sanh, thành tựu Phật pháp. Mắt thịt phàm phu chúng ta không thấy ra được, còn phê bình họ, còn ruồng bỏ họ, chính mình tạo ra tội nghiệp mà chính mình không hề hay biết. Các Ngài nhất định không có phá giới, quyết định là người trì giới, cho nên phương thức trì giới không như nhau. Kỳ thật những nguyên lý nguyên tắc này trên giới kinh đều nói rất rõ ràng.

Trong trì giới, phương thức trì giới có “khai, giá, trì, phạm”, chúng ta làm gì hiểu được? Mỗi một điều giới đều có khai duyên, quyết định ở trong tình huống lợi ích chúng sanh thì có thể khai duyên. Khai giới không phải phá giới, phá giới là khi không có khai duyên mà bạn muốn khai giới, đó là phá giới. Là vì lợi ích chúng sanh, là vì cảm động tất cả chúng sanh, là khiến tất cả chúng sanh giác ngộ, họ có tác pháp đặc thù.

Có lẽ các vị đã xem thấy ở trong Ngữ Lục của Tông Môn, công án của pháp sư Nam Tuyền. Nam Tuyền chém mèo, đó có phải là sát sanh phạm giới hay không? Nếu chúng ta học theo, ngày ngày đi giết mèo, các vị giết mèo sẽ đọa địa ngục, ông giết mèo thì thành Phật. Chu Hà đem tượng Phật xuống đốt thì ông thành Phật, bạn đem tượng Phật xuống đốt nhất định đọa địa ngục A Tỳ. Họ có thể làm, bạn không thể làm, vì sao vậy? Họ có nguyên nhân đặc thù, đốt một tôn tượng Phật có thể khiến cho một chúng sanh đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, cái tôn tượng Phật đó đốt được bao nhiêu công đức. Ngài dụng phương thức này rất quyết liệt, bảo một chúng sanh từ ngay chỗ này mà giác ngộ. Chúng ta có đốt 100 tôn tượng Phật cũng không có một người khai ngộ, đó chính là làm thân Phật ra máu, đoạ A Tỳ địa ngục, phạm tội ngũ nghịch. Rất quyết liệt, rất trí tuệ, rất hành động, quyết định là độ một chúng sanh đặc biệt nào đó, chúng sanh này chân thật được độ. Do đây có thể biết, giới luậtlinh hoạt, không phải khô cứng, người thông thường chúng ta không hiểu. Hiện tại thọ giới, thầy truyền giới thì không thể giảng rõ ràng, giảng tường tận, mơ mơ hồ hồ mà thọ thì bạn sẽ mơ mơ hồ hồ mà học, họ thì mơ mơ hồ hồ mà truyền, còn bạn thì mơ mơ hồ hồ mà thọ. Kết quả đến sau cùng là mơ mơ hồ hồ mà đọa lạc, cũng không biết được, còn cho rằng chính mình giới luật trì được rất thanh tịnh. Đó là oan uổng. Cho nên chúng ta học Phật phải giữ lấy cái nguyên tắc là phàm hễ việc gì đều phải đem nó làm cho rõ ràng, làm cho tường tận. Không làm rõ ràng, không làm tường tận thì không thể đi làm, đây là thái độ cơ bản của chúng ta trong học vấn.

Tôi học Phật, việc này tôi đã nói qua với các vị, tôi học Phật ba năm đầu thấy tượng Phật không hề lạy, tôi bỏ nón ra, xá ba xá, tôi dùng phương thức này. Lão sư của tôi không hề trách tôi. Đại sư Chương Gia đối với tôi tốt như vậy, yêu thương đến như vậy, tôi cũng không hề quỳ lạy Ngài, tôi đối với Ngài cũng là cúi đầu xá ba xá. Ngài cũng không hề cho tôi là vô lễ. Tại vì sao tôi không thể quỳ xuống để lạy Ngài? Tôi không hiểu được tại vì sao phải quỳ xuống để lạy Ngài. Ngài phải đem đạo lý giảng cho tôi nghe được rõ ràng, tôi không hiểu được rõ ràng thì tôi sẽ không làm theo, muốn tôi làm vậy thì tôi không làm được. Cho nên về sau làm cho rõ ràng, hiểu cho tường tận, tôi mỗi ngày lạy Phật 800 lạy, tôi lạy được nửa năm, đã lạy mười mấy vạn lạy. Phải làm cho rõ ràng, làm cho tường tận, mới biết được đây là một loại phương pháp tu hành. Phương pháp này có thể nhiếp tâm, là một phương pháp tốt nhất trong tu hành, không phải chỉ riêng nói là cung kính. Cung kính thì chúng ta cúi ba lần xá, chúng ta chân thành cung kính tuyệt nhiên cũng không hề khác, vậy thì đã làm được rất đúng pháp. Khi tôi mới bắt đầu học Phật, tôi luôn cảm thấy chúng ta là người hiện đại, lễ tiết của người hiện đại nhìn thấy tổng thống cũng ba lần cúi chào, vậy chúng ta thấy Phật cũng là như vậy, thấy pháp sư cũng là như vậy, là người hiện đại mà, không phải là người xưa. Người nhà Thanh thấy Hoàng đế ba lần quỳ chín lần khấu đầu, người vào thời đó nhìn thấy pháp sư cũng là ba lần quỳ chín lần khấu đầu, tôi đồng ý. Người hiện đại thì tôi không đồng ý, chúng ta là người hiện đại, phàm hễ có cái lý, lý chưa hiểu cho rõ ràng thì tôi quyết không mù quáng theo. Cho nên lão sư của tôi khi dạy tôi rất tốt, bởi vì tôi nói lý, tôi không mù quáng theo, lý chưa làm cho rõ ràng mà bảo tôi làm như vậy thì tôi không làm được. Cho nên tôi vừa xem thấy thanh niên hiện tại, học sinh đại học vừa nhìn thấy tượng Phật, nhìn thấy pháp sư đều quỳ xuống lạy, tôi rất bội phục, vì sao vậy? Họ lợi hại hơn tôi nhiều, tôi không làm được, tôi tìm hiểu ba năm, hiểu thông rồi mới làm được. Bạn học Phật phải ăn chay, tại vì sao phải ăn chay? Tôi cũng là hiểu cho rõ ràng đạo lý rồi tôi mới chịu thật làm. Khi lý chưa hiểu rõ ràng, bạn bảo tôi đi làm, tôi sẽ rất khó mà làm.

Hơn nữa, vào lúc đó, thông thường bạn bè bạn học đồng sự của tôi đều hiểu rõ tôi, tôi là người ngoan cố nhất, không thể làm cho tôi tâm phục khẩu phục thì bạn không dễ gì lay động tôi. Cho nên sau khi tôi học Phật, vào lúc đó tôi vẫn còn đi học, trong cơ cấu của chúng tôi đồng sự trên dưới có hơn 300 người đều bị ảnh hưởng rất lớn, họ nói là lão ngoan cố học Phật thì Phật pháp nhất địnhđạo lý, không có đạo lý thì ông này sẽ không học Phật. Bởi vì trong đoàn thể đó của tôi, người tín đồ Ki Tô giáo rất nhiều, mọi người khi rảnh thường hay cùng nhau tụ họp đều là thảo luận giáo nghĩa của Ki Tô giáo. Sau khi tôi học Phật, có một số người nói với tôi, vào lúc đó tôi chưa xuất gia, họ bảo với tôi: “Lão Từ! Ông có phát hiện trong đoàn thể của chúng ta hiện tạihiện tượng thay đổi rồi không?”. Tôi hỏi: “Hiện tượng gì?”. Họ nói: “Hiện tại không có người nào nói đến Ki Tô giáo”. Tôi hỏi: “Vì sao vậy?”. Họ nói: “Vì ông học Phật rồi, người ta không còn nói đến Ki Tô giáo. Lão ngoan cố học Phật thì Phật pháp nhất địnhđạo lý, không có đạo lý ông ấy nhất định sẽ không học, sẽ không tin”. Cho nên sanh ra sức ảnh hưởng rất lớn, chính tôi cũng không hề biết.

Cho nên trì giới là tất cả đều đúng pháp. Pháp là linh hoạt, không phải là khô cứng, việc này nhất định phải hiểu. Trong giới phápluật nghi giới, đây là giáo huấn của Phật Đà; có nhiếp thiện pháp giới, bao gồm giáo huấn của Phật, bao gồm giáo huấn của thánh hiền thế gian; còn có nhiêu ích hữu tình giới, phạm vi này còn rộng lớn hơn, chỉ cần là chân thậtlợi ích đối với chúng sanh, cho dù Phật có nói hay không nói, chúng ta đều phải đi làm. Cho nên trong trì giới bao gồm tất cả pháp lịnh qui ước của thế gian, phong tục tập quán, khái niệm đạo đức, chúng ta đều phải tuân thủ. Đặc biệt là một người hoằng dương Phật pháp, không luận xuất gia, tại gia đến khu vực này giảng kinh nói pháp, bạn nhất định phải hiểu quan niệm đạo đức phong tục tập quán của khu vực đó, bạn nhất định phải tuân thủ, giữ pháp luật của nơi đó thì người địa phương mới hoan nghênh bạn, mới dễ dàng tiếp nhận bạn. Người Trung Quốc chúng ta thường nói: “Nhập cảnh tùy tục”, nếu như chúng ta không chịu tùy tục, đem cái cách sống của mình mang đến một quốc gia khác thì quyết định không thể ảnh hưởng được chúng sanh khu vực đó. Cho nên hoằng pháp lợi sanh nhất định phải ghi nhớ, bổn thổ hoá cùng hiện đại hóa là quan trọng, bạn mới có thể nhận được hiệu quả, mới có thể phổ độ chúng sanh.

Tôi thường hay nói, bạn xây đạo tràng, ở nước ngoài xây đạo tràng thành kiểu dáng cung điện của Trung Quốcsai lầm, là đem văn hoá Trung Quốc áp đặt cho người địa phương thì người địa phương làm sao mà tiếp nhận? Vừa xem thấy là văn hóa nước ngoài, đứng bên ngoài nhìn nhìn rồi đi, sẽ không bước vào. Cho nên chúng ta có rất nhiều pháp sư xây dựng đạo tràng ở nước ngoài đều là xây kiểu dáng cung điện của Trung Quốc, đều là đem một bộ kiểu dáng cũ dọn qua bên đó, áp đặt người nước ngoài phải làm người Trung Quốc, còn làm người Trung Quốc thời xưa, bạn nói xem, họ làm sao mà cam tâm, làm sao có thể bước vào? Vì vậy năm xưa tôi chủ trương, khuyên bảo một số pháp sư tôi quen biết (vào lúc đó tôi vẫn còn ở Đài Loan, họ có cơ hội đi ra nước ngoài) là đến nước ngoài xây đạo tràng thì nhất định phải xây hình thức nước ngoài. Thí dụ đến Hoa Kỳ, ở Hoa Kỳ xây đạo tràng thì phải xây kiểu dáng gì? Xây kiểu dáng nhà Trắng, xem coi nhà Trắng xây dựng thế nào, chiếu theo hình thức đó mà xây. Chiếu theo hình thức kiểu dáng của Hoa Kỳ mà xây, để người Mỹ vừa thấy thì nghĩ nơi đây là của mình, họ nhất định sẽ bước vào. Tạo tượng Phật nhất định tạo khuôn mặt của người Mỹ, thì họ sẽ cảm thấy thân thiết, họ vừa xem thấy thì nghĩ đây là người của mình thì họ liền bước vào. Chúng ta làm kiểu dáng cung điện Trung Quốc, tượng Phật thì thỉnh từ Trung Quốc qua, kiểu dáng người Trung Quốc, nhất là người nước ngoài xem thường người Trung Quốc, còn muốn bảo người ta làm người Trung Quốc, bảo người ta làm người Trung Quốc cổ xưa, quyết định họ sẽ không cam lòng, lắc đầu liền bỏ đi, ngó cũng không thèm ngó. Đây là chúng ta ở nước ngoài hoằng pháp hơn một trăm năm qua, nguyên nhân thất bại chính ngay chỗ này. Cho nên chúng ta không thể so được với những cao tăng đại đức Ấn Độ xưa, khi họ đến Trung Quốc, bạn xem họ xây đạo tràng là kiểu cung điện của Trung Quốc. Lão bá tánh rất là tôn kính đế vương, nơi đế vương ở là cung điện, cho nên họ xây đạo tràng là xây kiểu dáng cung điện, bổn thổ hoá. Những cao tăng này đến Trung Quốc, bỏ đi y phục của họ, mặc áo choàng của Trung Quốc, hoàn toàn giống như người Trung Quốc, chúng ta hoan nghênh họ. Nếu như họ mặc phục trang như người Ấn Độ, xây đạo tràng kiểu Ấn Độ, chúng ta cũng sẽ không tiếp nhận, cũng sẽ không bước vào cửa của họ, họ cũng không độ được người Trung Quốc. Bạn nghĩ xem, hai ngàn năm, Phật giáo ban đầu truyền đến Trung Quốc, những cao tăng đại đức đó hiểu được bổn thổ hoá, hiện đại hoá, cho nên mới sanh ra hiệu quả lớn đến như vậy. Chúng ta lơ là đi cái khoảng này. Đây đều là bao gồm ở trong trì giới, còn tự cho là giới này tu được rất tốt, tu được không tệ, trong đây xảy ra vấn đề rất lớn.

Nhân giới được định, bạn không có được thiền định chính là bạn trì giới chưa có hiệu quả. Đây là đối với giới điều “trì giới” này khái lược nói sơ qua. Trì giới làm thế nào mới có thể gọi là độ, gọi là Ba La Mật Đa? Trì giới độ ác nghiệp, quyết định viễn ly tất cả ác nghiệp. Ác nghiệp chính là hành vi ác. Cái gì là hành vi ác? Tác hại đến đạo nghiệp chính mình, ảnh hưởng tu học của người khác đều là ác nghiệp. Chúng ta chính mình yêu cầu là Giới-Định-Huệ tam học. Trong Tịnh Độ tông chúng ta cầu cái gì? Nhất tâm bất loạn, tâm không điên đảo. Nhất tâm bất loạn là định, tâm không điên đảo là huệ, tên gọi không như nhau nhưng ý nghĩa như nhau. Vậy thì chúng ta ở ngay trong một đời tu học nhiều năm đến như vậy nhưng không có được tâm thanh tịnh thì trì giới không có thành tích; không có được tâm từ bi thì nhẫn nhục không có thành tích, tuy là bạn đang tu, bạn xem thử bạn có được thành tích hay không? Cũng giống như đi học ở trường vậy, dường như là rất dụng công, mỗi ngày đều đi học, khi đi thi thì không điểm, không lấy được thành tích. Như vậy bạn mới hiểu được thế nào gọi là trì giới, hiểu được ý nghĩa của giới luật. Tinh thần, giới tướng, giới pháp của giới luật, ở trong đây bao gồm rất nhiều học vấn của thế xuất thế gian.

Tiếp theo sau là Nhẫn Nhục Ba La Mật. Nhẫn là ý nghĩa của nhẫn nại, năm xưa pháp sư dịch kinh đem nó dịch thành nhẫn nhục, đây cũng là phiên dịch suy xét đến bổn thổ hoá và hiện đại hoá. Bởi vì người xưa Trung Quốc rất xem trọng đối với cái nhục, chúng ta thường hay đọc qua trong sách cổ là “sĩ khả sát, bất khả nhục”, rất là xem trọng đối với cái nhục. Sĩ là phần tử tri thức, người đi học, ở trong xã hội được mọi người tôn kính. Người đi học có thể bị chặt đầu, không thể bị vũ nhục. Người Trung Quốc xem sự vũ nhục nặng đến như vậy, cho nên pháp sư dịch kinh dịch đến nhẫn liền dùng chữ nhục, nhục còn có thể nhẫn thì còn cái gì không thể nhẫn? Đây là nói rõ tất cả đều phải nhẫn. Trên kinh Kim Cang có một câu nói rất hay: “Nhất thiết pháp đắc thành ư nhẫn”. Bạn không thể nhẫn thì không thể thành tựu. Bạn nhẫn nhỏ thì thành tựu nhỏ, nhẫn lớn thì thành tựu lớn. Chúng ta có được thân người không dễ, nghe được Phật pháp thì càng không dễ dàng, nên gọi là “nhân thân nan đắc, Phật pháp nan văn”. Được thân người nghe Phật pháp, nếu muốn có thành tựu thì chính là đắc thành ở nhẫn. Chính bạn tu hành độ hóa, hành vi tạo tác, người khác chưa chắc gì biết, người khác chưa có trí tuệ để có thể thấy được rõ ràng. Người có trí tuệ, xem thấy hành vi việc làm của bạn liền kính ngưỡng bạn, bội phục bạn. Người không có trí tuệ xem thấy hành động việc làm của bạn thì đố kỵ, phê bình bạn, nhục mạ bạn, thậm chí hãm hại bạn. Bạn phải có thể nhẫn, bạn không thể nhẫn thì tâm bạn bị thoái chuyển rồi. Bạn thoái chuyển bạn không hề gì. Sự việc bạn làm là có thể giúp cho chánh pháp trường tồn, là có thể lợi ích tất cả chúng sanh, khi bạn vừa thoái chuyển thì Phật pháp liền suy, chúng sanh không có phước, phải bị nạn. Chẳng nên vì có một số ít người hủy báng nhục mạ mà làm cho hư đi việc lớn của bạn. Cho nên phải kiên trì, không nên để trong lòng. Một người bị người phê bình đến lúc nào đậy nắp quan tài mới định luận được. Bạn vẫn chưa chết, hay nói cách khác, người ta phê bình đều là đánh một dấu hỏi, không đáng tin, đợi sau khi bạn chết rồi mới nói. Hiện tại chuyện bạn làm là ác nhưng chưa hẳn là ác, bạn làm việc thiện chưa hẳn là thiện, nhất định phải xem kết quả về sau. Nếu như bạn làm ngay trước mắt là ác, thế nhưng đến sau cùng có thể lợi ích chúng sanh, vậy thì cái ác của bạn là đại thiện. Người thiển kiến vô tri không nhìn thấy được, họ tạo ra tội nghiệp nhỏ, cá nhân họ thọ báo. Nếu như bạn không thể nhẫn nại mà thoái tâm thì tất cả chúng sanh bị hại. Bạn phải nên biết, tất cả chúng sanh bị hại thì tội của người nhục mạ bạn, người huỷ báng bạn sẽ nặng, họ sẽ đọa vào địa ngục A Tỳ. Bạn có thể nhẫn nại, không để ý đến họ, vẫn cứ như vậy mà làm thì họ tạo ra tội nghiệp nhẹ. Bạn xem, bạn cũng đã cứu được họ. Bạn không bị họ ảnh hưởng, bạn vẫn cứ làm bình thường, vẫn là chánh pháp trường tồn, vẫn là lợi ích chúng sanh, nhờ vậy việc hủy báng của họ tạo ra nghiệp nhỏ, vậy thì nhẹ. Nếu chân thật bị ảnh hưởng, nếu bạn thoái chuyển, thì họ tạo ra tội nghiệp cực trọng, phải đọa địa ngục A Tỳ. Chúng ta hiểu rõ cái đạo lý này. Họ đang tạo nghiệp, chúng ta hy vọng họ tạo nghiệp nhẹ một chút, tương lai thọ báo sẽ nhẹ đi, không nên chịu báo quá nặng. Đây là từ bi thương sót đối với họ, họ làm gì biết được? Họ ngu si mê muội, họ không biết. Cho nên người chân thậttrí tuệ, người phát tâm Bồ Đề, bạn xem cái tâm đó từ bi đến cùng tột. Những đạo lý này nếu bạn không ngày ngày đọc kinh, không ngày ngày nghe kinh, thì bạn làm sao giác ngộ, làm sao có thể tường tận. Người chân thật thương yêu bạn, người giúp đỡ bạn, bạn đem họ xem thành oan gia đối đầu. Tuy là bạn đem họ xem thành oan gia đối đầu, người ta vẫn là chân thành thương yêu bạn, vẫn là chân thành giúp đỡ bạn, quyết không bởi vì bạn không nhận biết, quyết không bởi vì bạn vẫn còn nhục mạ hãm hại họ mà họ giảm ít đi lòng thương yêu đối với bạn. Nếu như họ chân thật giảm ít đi lòng yêu thương, sự giúp đỡ, thì họ không có nhẫn nhục Ba La Mật, trong Bồ Tát hạnh của họ liền kém khuyết đi một điều, sẽ không được viên mãn.

Cho nên thông thường nói nhẫn nhục, cái thứ nhất chính là có thể nhẫn được sự hãm hại của người làm ra, loại thứ hai là tai hại của tự nhiên cũng có thể nhẫn, loại thứ ba là cách tu. Trong cách tu, bao gồm thế xuất thế gian pháp, không luận làm bất cứ nghề nghiệp nào đều rất gian nan, đều là không dễ dàng, bạn không có lòng nhẫn nại thì bạn làm sao có thể thành tựu? Những việc thế xuất thế gian, có việc nào là thuận bườm xuôi gió chứ? Chỗ này phải nên biết. Trong ngạn ngữ thường nói: “Bất như ý sự thường bát cửu”, lại nói “hảo sự đa ma”, việc tốt làm gì mà dễ làm vậy chứ? Nếu bạn không có lòng nhẫn nại, không có trí tuệ thì rất dễ dàng thoái chuyển, rất dễ dàng bị ma chướng ngại mất. Cho nên việc tốt chân thật là ai làm? Chư Phật Bồ Tát đến làm. Bồ Táttrí tuệ, Bồ Tát có sức định, Bồ Tátlòng nhẫn nại, dõng mãnh tinh tấn, quyết không thoái chuyển. Mười nguyện trong Hạnh Nguyện Phổ Hiền, mỗi nguyện sau cùng tổng kết là “không hề mệt mõi”. Đó là tướng dõng mãnh tinh tấn, đó là thành tựu nhẫn nhục Ba La Mật, làm gì có đạo lý thoái chuyển. Tại vì sao có thể không thoái chuyển? Bởi vì họ niệm niệm biết có nhiều chúng sanh khổ nạn đến như vậy đang chờ đợi được độ, khi họ vừa thoái chuyển thì những chúng sanh khổ nạn này không có người giúp đỡ, không có người cứu. Cho nên nghĩ đến cái điểm này, chính mình liền không dám thoái chuyển, có oan ức đến thế nào cũng phải nhẫn chịu, hãm hại đến thế nào cũng phải nhẫn chịu, như vậy mới hiển thị ra từ bi của bạn, vĩ đại của bạn.

Thế Tôn trên hội Kim Cang Bát Nhã, tuy là sáu cương lĩnh của Bồ Tát hạnh đều giảng rất nhiều, rất rõ ràng, nhưng hai điều bố thínhẫn nhục này thì giảng nhiều nhất. Nguyên nhân này do đâu? Bố thí có thể tu đại phước báo, nhẫn nhục có thể thành tựu đại phước báo. Nếu như bạn chỉ biết được bố thí, không thể nhẫn nhục thì phước báo của bạn sẽ một mặt tu được một mặt tiêu hao hết, rất khó thành tựu. Cho nên bố thínhẫn nhục mới có thể thành tựu. Thí dụ bạn rất biết kiếm tiền, thế nhưng bạn cũng tiêu tiền rất nhiều, bạn kiếm được rất nhiều, bạn xài cũng rất nhiều, đến sau cũng vẫn là nghèo rớt mồng tơi, bạn không thể nhẫn nại. Người chịu bố thí, chịu kiếm tiền mà vẫn có thể nhẫn nại, có thể tiết kiệm thì họ mới có thể thành đại phú. Đây chính là tu được phước nhiều, nhưng hưởng dụng thì rất ít, đây chính là có thể nhẫn, vậy mới có thể tích lũy, mới có thể hưởng thụ phước báo lớn. Cho nên chúng ta nhất định phải phát tâm, nhất định phải rõ lý, sau đó nỗ lực tu học. Ngày trước chúng ta không hiểu được đạo lý này, không hiểu rõ sự thật, luôn là có lòng tham, đối với thế pháp Phật pháp đều có lòng tham, luôn là bỏn xẻn, chính mình có không chịu bố thí cho người khác. Hiện tại biết được đó là chướng ngại, chướng ngại chính mình minh tâm kiến tánh, chướng ngại chính mình niệm Phật vãng sanh, thậm chí chướng ngại chính mình nghiên cứu pháp huệ của kinh giáo. Bạn nghiên cứu kinh giáo vì sao không khai mở trí tuệ? Bạn có chướng ngại. Bạn đem chướng ngại này xả bỏ đi thì bạn đọc kinh sẽ khai mở trí tuệ, bạn nghe giảng sẽ khai ngộ. Vì sao vậy? Không có chướng ngại thì bạn mới có thể tu hành chứng quả, đạo lý chính ngay chỗ này. Cho nên xan thamcửa ải quan trọng, là chướng ngại lớn nhất, nhất định phải đột phá.

Trì giới lại có thể đột phá chướng ngại thứ hai. Loại chướng ngại lớn thứ hai chính là mỗi niệm tự tư tự lợi, mỗi niệm tổn người lợi mình, đây chính là ác nghiệp. Bạn xem xã hội ngày nay, có người nào không nói đến lợi ích của chính mình, làm thế nào giữ lấy lợi ích của chính mình. Giữ lấy lợi ích của chính mình thì nhất định tổn hại lợi ích của người khác, ác nghiệp từ ngay chỗ này mà phát sanh. Mục đích của trì giới là mọi thứ đều đúng lý đúng pháp, quyết không còn tạo ác nghiệp. Nhẫn nhục như vậy thì bạn mới có thể chân thật tích lũy công đức, mới có được thành tựu nhỏ. Dần dần phát triển lớn lên thành đại thành tựu, thậm chí đến công đức viên mãn.

Sáu cương mục của Bồ Tát hạnh, chúng ta đã giảng được ba loại, phía sau vẫn còn Tinh Tấn, Thiền Định, Bát Nhã. Cái huệ này chính là Bát Nhã. Hai câu nói này chính là học pháp môn, đoạn phiền não trong Tứ Hoằng Thệ Nguyện. Học lục độ là học pháp môn, hiệu quả của lục độ này là phá phiền não. Bố thí phá xan tham, trì giới phá ác nghiệp, nhẫn nhục phá sân hận, tinh tấn phá giải đãi, thiền định phá tán loạn, bát nhã phá ngu si. Từ chỗ phá này chính là “phiền não vô tận thệ nguyện đoạn”, từ phương pháp này chính là “pháp môn vô lượng thệ nguyện học”, hai câu này hàm chứa hai nguyện trong Tứ Hoằng Thệ Nguyện.

Phía sau: “Vị độ hữu tình linh đắc độ”, đây là “chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”. Một câu sau cùng: “Dĩ độ chi giả sử thành Phật”, đó là “Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành”. Bốn câu này viên mãn tròn đầy Tứ Hoằng Thệ Nguyện.

Thứ tư, tinh tấn ba la mật.

Tinh tấnthiện căn duy nhất của Bồ Tát. Trên kinh Phật đã nói ra thiện căn, chúng ta phải đặc biệt chú ý, không luận là Đại thừa, Tiểu thừa, Tông môn Giáo hạ, Hiển giáo Mật giáo, cũng đều không ngoài từ đoạn ác tu thiện mà vào cửa. Nếu như chúng ta không thể đoạn tất cả ác, không thể tu tất cả thiện, ngay đời này không luận bạn tu học thế nào, đến sau cùng bạn vẫn không có cách gì thoát khỏi sáu cõi luân hồi, bạn có nịnh bợ Phật Bồ Tát thế nào đi nữa, đút lót Phật Bồ Tát cũng không ích gì. Đạo lýsự thật này nhất định phải rất rõ ràng, rất tường tận. Phật giúp tất cả chúng sanh quyết định không có dùng cảm tình, điểm này chúng ta nhất định phải ghi nhớ, phải tường tận. Phật giúp chúng ta là nói đạo lý, là lý tánh. Phật gia trì đối với tất cả chúng sanh chính là khai thị, vì chúng ta giảng kinh nói pháp, vì chúng ta làm ra rất nhiều điển phạm, chúng ta xem thấy nghe thấy nhất định phải hành chứng. Hành chứng thì Phật Bồ Tát không thể nào giúp được cho chúng ta.

Mấy ngày trước, lão pháp sư Minh Sơn ở nơi đó đã giảng mười ngày kinh Lăng Nghiêm. Bộ kinh này có rất nhiều đồng tu đều rất quen thuộc. Ở trên hội Lăng Nghiêm, chúng ta cũng xem thấy Phật Bồ Tát đã làm ra điển phạm cho chúng ta, biểu diễn cho chúng ta. Tôn giả A Nan đã đóng một vai chính, quan hệ của Ngài với Phật không như người thông thường, Ngài không phải là học trò thông thường, Ngài là anh em với Thích Ca Mâu Ni Phật. Anh em của Ngài tổng cộng có tám người, Thích Ca Mâu Ni Phậtanh cả, A Nan là nhỏ nhất, tiểu đệ nhỏ nhất, cho nên Ngài chính mình tự cho rằng Phật là anh cả của Ngài, lại yêu thích Ngài, chăm sóc Ngài đến như vậy, những người này phải nỗ lực tu hành, không tu hành thì không thể được độ; tôi không hề gì, tương lai đến lúc thì anh cả sẽ biết giúp đỡ, nắm lấy một tay. Trong lòng giữ lấy cái tâm niệm này thì không chính xác, đến khi gặp nạn Ma Đăng Già mới biết được, mới hoát nhiên đại ngộ là sự việc này anh cả không thể giúp được, mới hiểu rõ ra không tu hành thì không được. Người khác cần khổ tu hành, A Nan cũng phải nỗ lực tu hành. Đó là làm ra tấm gương để cho chúng ta xem.

Tu hành phải bắt đầu tu từ đâu? Đoạn ác tu thiện, đoạn tất cả ác, tu tất cả thiện, phải bắt đầu làm từ đây. Như vậy thì bạn liền biết, người thế gian làm ác, cội gốc của ác là ở đâu? Phật dạy người tu thiện, gốc của thiện là ở chỗ nào? Đây chính là nói đến thiện căn, thiện có gốc, ác cũng có gốc. Gốc của ác là gì? Tham-sân-si, gọi là phiền não ba độc, chúng ta nhất định phải nhận biết rõ ràng. Ngày nay khởi tâm động niệm, khởi lên tâm tham, khởi lên tham ái, lập tức liền phải giác ngộ đó là cội gốc của tất cả ác. Cái ý niệm này vừa khởi lên thì đây là gốc của ác phát tác, nó đang khởi tác dụng, vô cùngđáng sợ, vô lượng vô biên tội ác đều là từ cái gốc này mà sanh ra. Người xưa có câu rằng: “Không sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm”. Bạn phải giác ngộ được nhanh, cái gốc này hiện tại đang phát động, lập tức phải đình chỉ nó, chế ngự nó, đó gọi là tu hành. Quả nhiên có thể khống chế được, đó gọi là công phu. Cho nên công phu đắc lực thì bạn liền có thể khống chế được phiền não, đây gọi là công phu đắc lực. Không thể khống chế phiền não được, vẫn cứ khởi hiện hành, vẫn cứ tạo nghiệp thì công phu không có lực.

Ba thiện căn thế gian chính là không tham, không sân, không si. Có thể thấy được gốc của ác đảo ngược lại thì gọi là gốc thiện. Chúng ta ở ngay trong cuộc sống thường ngày, sáu căn tiếp xúc với cảnh giới bên ngoài, khởi tâm động niệm phải ở ngay nơi đó mà công phu. Thấy sắc, nghe tiếng, ý niệm tham-sân-si mới vừa khởi thì lập tức phải hàng phục nó. Trên kinh Kim Cang đã nói là “vân hà hàng phục kỳ tâm”, cái tâm đó chính là ba độc phiền não, bạn phải mỗi giờ mỗi phút phải đề cao cảnh giác. Bởi vì gốc của ba độc phiền não quá sâu, diện tích quá rộng, vô lượng kiếp đến nay tạo thành cái họa ngày nay, nhất thời muốn đem nó trừ bỏ thì không thể trừ được. Thâm căn cố đế, làm gì mà dễ dàng đến như vậy? Biện pháp duy nhất là đề cao cảnh giác, nó vừa phát tác lập tức liền khống chế nó. Dùng phương pháp gì để khống chế? Trên kinh Phật nói với chúng ta tám vạn bốn ngàn pháp môn, vô lượng pháp môn, phương pháp vô lượng vô biên, những phương pháp này làm gì? Đều không ngoài khống chế phiền não. Ngày nay chúng ta học là pháp môn niệm Phật, chúng ta dùng một câu Phật hiệu để khống chế nó, ý niệm vừa khởi thì “A Di Đà Phật” hàng phục lấy nó, cái niệm thứ nhất là tham-sân-si, cái niệm thứ hai liền đổi thành “A Di Đà Phật”. Bạn có được loại phương pháp này, niệm Phật như vậy công phu mới có lực, mới có thể niệm được tương ưng.

Trên đây là nói thiện căn ác căn của thế gian, còn thiện căn Bồ Tát chỉ có một, bởi vì Bồ Tát quyết định tu ba thiện căn. Ba thiện căn thế pháp Bồ Tát không có vấn đề, đương nhiên Bồ Tát thì kiến tư phiền não, trần sa phiền não đều đoạn rồi, vô minh cũng đã phá đi một phẩm, chứng được pháp thân thanh tịnh, cho nên nói thiện căn của thế gian Bồ Tát đã viên mãn. Vậy thì về sau cái gì là thiện căn của Bồ Tát? Phật nói tinh tấnthiện căn duy nhất của Bồ Tát. Ý nghĩa của hai chữ tinh tấn này cũng là sâu rộng vô lượng. Tiến là tiến bộ, tiến mà không lùi.

Người xưa phán giáo bộ kinh này của chúng ta là thuộc về Đại thừa viên đốn, còn thù thắng hơn Hoa Nghiêm. Đại đức thời Tùy Đường cho rằng Hoa Nghiêm, Pháp Hoa chẳng qua chỉ là dẫn đạo của kinh Vô Lượng Thọ mà thôi. Bạn thấy, bộ kinh này đã được xem trọng đến dường nào! Bộ kinh này quá là thù thắng! Vậy thì chúng ta biết được, tiêu chuẩn của bộ kinh này là pháp thân đại sĩ, thế nhưng đặc biệt của kinh này là có thể phổ bị ba căn lợi độn gồm thâu, do đó phạm vi tinh tấn vô cùng rộng lớn. Pháp viên đốn cần phải phá một phẩm vô minh mới chứng được tam bất thoái, cái chữ tiến này có rồi. Bạn xem, “tấn bất thoái, hành bất thoái, niệm bất thoái”. Thế nhưng ở trên kinh này của chúng ta nói, không chỉ là chứng được tam bất thoái, mà là viên chứng tam bất thoái. Cái chữ “viên” này là không thể nghĩ bàn, viên là viên mãn. Chúng ta xem thấy ở trên kinh Hoa Nghiêm, Viên Giáo Sơ Trụ Bồ Tát liền chứng tam bất thoái, thế nhưng không viên. Người thế nào mới có thể được gọi là viên chứng tam bất thoái? Nghiêm khắc mà nói, Bồ Tát đẳng giác mới có thể nói là viên chứng. Nếu như đem tiêu chuẩn này mở rộng hơn một chút, đó chính là trong kinh thường nói “A Duy Việt Trí Bồ Tát”, đây là trên kinh thường nói, ngay trong ba kinh đều nói, hơn nữa nói qua nhiều lần, đây có thể nói họ là viên chứng tam bất thoái. A Duy Việt Trí, đại đức xưa nói rõ với chúng ta, là từ Thất Địa trở lên, hay nói cách khác, địa vị thấp nhất là Bồ Tát Thất Địa. Thất địa, Bát địa, Cửu địa, Thập địa, Đẳng giác được xem là thập nhất địa, những vị thứ này mới có thể xem là viên chứng tam bất thoái. Đây không phải là một sự việc dễ dàng, có thể thấy được thù thắng hơn rất nhiều so với Hoa Nghiêm đã nói.

Thế nào mới xem là tinh tấn?

Cái chữ Tinh này là tinh thuần, thuần mà không tạp mới xem là tinh. Tinh tấn là một khoá mục rất quan trọng trong tu học của Bồ Tát. Phật vì tất cả chúng ta nói ra vô lượng pháp môn, nhưng tuyệt nhiên không phải bảo bạn toàn bộ thảy đều học tập. Nếu như bạn nghĩ như vậy, thấy như vậy thì bạn sai rồi. Yêu cầu của Phật là bảo bạn ở trong tất cả pháp môn chọn ra một môn để tinh tấn tu học, ý nghĩa của tinh ở ngay chỗ này. Một môn thâm nhập, trường kỳ huân tu thì gọi là tinh tấn. Chúng ta xem thấy được trong kinh Hoa Nghiêm, Hoa Nghiêm từ đầu đến cuối, nơi nơi đều hiển thị hiệu quả của tinh tấn tu học. Chúng ta hiện tại mới giới thiệu đến đại chúng xuất tòa, chưa chính thức giảng đến kinh văn. Đại chúng tham dự pháp hội này, hiện tại nói ra cho chúng ta, họ đều là do từ một pháp môn chứng nhập giải thoát. Chứng nhập giải thoátý nghĩa gì vậy? Siêu việt sáu cõi luân hồi, siêu việt mười pháp giới. Giải thoát, giải là khai giải phiền não, kiến tư phiền não khai giải rồi, danh từ mới hiện tại gọi là giải phóng, kiến tư phiền não giải phóng, thoát khỏi sáu cõi luân hồigiải thoát. Trần sa phiền não giải phóng rồi, vô minh phá một phẩm, bạn liền thoát khỏi mười pháp giới, đây là ý nghĩa của giải thoát. Hay nói cách khác, chính là thông thường trong nhân gian chúng ta gọi là chứng quả. Họ chứng được là quả gì vậy? Phật quả, họ thành Phật rồi, viên giáo sơ trụ thành Phật rồi. Cư sĩ Giang Vị Nông ở trong kinh Kim Cang giảng nghĩa giải thích với chúng ta từ chư Phật, Ngài chính là nói ra cách này. Chư Phật là chỉ người thế nào? Chỉ 41 vị Pháp Thân Đại Sĩ, đó gọi là chư Phật, thiền tông Trung Quốc gọi là minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật. Người thế nào kiến tánh? Viên Giáo Sơ Trụ Bồ Tát thì kiến tánh, phá một phẩm vô minh, thấy một phần chân tánh, họ chân thật đã thành Phật. Kiến tánh thì liền thành Phật, vị Phật này gọi là phần chứng vị. Họ là Phật thật, họ không phải là Phật giả, thế nhưng họ vẫn chưa viên mãn. Vì sao vẫn chưa viên mãn? Vọng tưởng chưa đoạn tận, vọng tưởng chính là vô minh, vô minh chưa đoạn hết. Vô minh đoạn hết rồi, đó chính là cứu cánh viên mãn thành Phật. Vô minh tuy là chưa đoạn hết, nhưng phá được mấy phần, cho nên họ là Phật thật, không phải Phật giả. Các vị xem thử, tỉ mỉ mà quán sát, các Ngài dùng phương pháp gì để thành tựu? Một môn, cho nên họ là tinh tấn thành tựu, họ không phải là tạp tấn thành tựu. Ngày nay chúng ta phạm phải điều huý kỵ to lớn là đã học quá nhiều, môn nào cũng muốn học, môn nào cũng muốn hạ công phu, đến sau cùng không môn nào thành. Cái thí dụ này, bắt đầu từ Thế Tôn mãi đến hiện tại hôm nay, đời đời đều có cái hiện tượng này. Chúng ta là người chân thật học Phật, đối với những thứ này không thể không lưu ý đến.

Bạn tỉ mỉ mà quán sát, người quá khứ, người hiện tại, họ làm thế nào để thành tựu? Điều kiện để họ thành tựu là gì? Người quá khứ người hiện tại tu hành thất bại, không có thành tựu, nguyên nhân thất bại ở chỗ nào? Không thể nói họ không có dụng công, không thể nói họ không có tâm, họ thật có tâm, thật có dụng công, tại vì sao đến sau cùng thì thất bại? Họ không phải tinh tấn, chúng ta dùng lời hiện đại là họ loạn tấn, họ tạp tấn, chính là nói họ học được quá nhiều quá tạp, cho nên họ không thể thành tựu. Đồng tu lớp bồi huấn chúng ta ở nơi đây, tôi nghĩ các vị phải nên thể hội được cái điểm này, phải nên có chút nhận biết. Chúng ta ở nơi đây mở lớp bồi huấn, kỳ hạn chỉ có ba tháng, bốn tháng. Tôi xem báo cáo của các vị, các vị viết ra cảm tưởng tâm đắc của các vị, các vị nói ở nơi đây ba tháng còn chắc thật hơn các vị ngày trước ở Phật học viện học bốn năm rất nhiều. Vẫn còn có hiệu quả, đây là nguyên nhân gì? Tuyệt đối không phải ở bên đây chúng tôi cao minh hơn so với thầy giáo Phật học viện của các vị, cũng không phải phương pháp khéo léo hơn so với các thầy giáo Phật học viện đã dùng, không phải như vậy. Thành thật mà nói, chúng ta mọi thứ đều không bằng người. Chúng ta nắm lấy được nguyên tắc gì mà các vị cảm thấy được ba tháng này còn có hiệu quả hơn so với học tập bốn năm? Chúng ta nắm lấy chính là tinh tấn. Các vị ở nơi đây ba tháng chỉ học một môn học, các vị ngày trước học qua Phật học viện, phải học mấy chục môn bài khoá, khác biệt chính ngay chỗ này. Ngay trong ba tháng này, trong đầu của các vị chỉ nghĩ đến một sự việc, nghĩ một bộ kinh, một pháp môn, toàn bộ tinh thần của bạn tập trung vào cái điểm này nên bạn cảm thấythành tựu. Trước đây các vị đi học ở Phật học viện, giờ đầu thì học môn này, giờ tiếp theo thì lại đổi học một môn khác, trong một ngày mà rất nhiều môn, phải học rất nhiều thứ khác nhau, trong não của bạn bị loạn lên, môn học này vẫn chưa hấp thu vào được thì lập tức đổi môn mới khác, đừng nói bốn năm không có thành tựu, bốn mươi năm cũng không có kết quả. Chúng ta từ ngay chỗ này mà thể hội, Phật nói tinh tấnđạo lý. Cho nên mọi người trên hội Hoa Nghiêm, bạn xem qua những đại chúng xuất tòa này, không luận họ thị hiệnthân phận gì, chúng ta tỉ mỉ quán sát họ, họ tán tụng đối với Phật, chính họ đưa ra báo cáo đều nêu ra một môn. Ở trên hội Hoa Nghiêm, chúng ta chân thật thể hội được “pháp môn bình đẳng, không có cao thấp”, pháp môn tu học của mỗi một người đều không giống nhau, mỗi một người đều chứng vô thượng đạo, mỗi một người đều thoát khỏi sáu cõi, mười pháp giới, đều chứng được Tịnh Độ Hoa Tạng của Tỳ Lô Giá Na Phật. Chúng ta phải sâu sắc tư duy, biết được tinh tấn là một bí quyết, là diệu phương, quyết định không thể xen tạp. Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát ở trong quyển Tây Phương Xác Chỉ nói với chúng ta phương pháp niệm Phật tinh tấn, Ngài nói ra ba câu là “không hoài nghi, không xen tạp, không gián đoạn”, đặc biệt trịnh trọng dặn bảo người niệm Phật kỵ huý nhất là xen tạp. Bạn xen tạp thì Phật hiệu của bạn quyết định niệm không tốt, hay nói cách khác, công phu của bạn không có lực.

Người niệm Phật chân thật thành tựu, trên kinh A Di Đà nói “nhất tâm bất loạn, tâm không điên đảo”. Nhất tâm bất loạnniệm Phật tam muội, tâm không điên đảotrí tuệ khai mở. Đại Thế Chí Bồ Tát đã nói “tự đắc tâm khai”. Tự đắc tâm khai chính là trên kinh A Di Đà đã nói là “tâm không được điên đảo”, công phu đều là đang tinh tấn, đều là ở một môn thâm nhập. Cho nên lớp bồi dưỡng của chúng ta đề xướng một môn thâm nhập, tương lai thành lập Phật học viện vẫn là một môn thâm nhập. Nếu như chúng ta muốn giống như Phật học viện thông thường, trường học thông thường, vậy thì con đường chúng ta đi giống y như con đường của họ đã đi, kết quả cũng giống y như kết quả của họ vậy. Lớp như vậy không có ý nghĩa, tinh thần thời gian của chúng ta toàn bộ đều lãng phí, làm như vậy thì làm để làm gì? Thế nhưng Phật học viện chúng ta có thể mở nhiều giáo trình, các vị đồng tu chọn lấy giáo trình nào rồi thì một môn thâm nhập, mỗi mỗi đều có thể thành tựu, giống như những vị Phật Bồ Tát trên hội Hoa Nghiêm này vậy, thì Phật học viện này liền có được thành tựu. Tương lai sau khi tốt nghiệp thì xuất hiện rất nhiều Bồ Tát, dùng lời hiện tại mà nói là “chuyên gia”. Học giảng kinh Vô Lượng Thọ bảy năm, bảy năm tốt nghiệp ra trường, bạn chính là Vô Lượng Thọ Phật. Học giảng kinh Di Đà cũng phải học bảy năm, bảy năm tốt nghiệp thì bạn chính là A Di Đà Phật. Học giảng Phổ Môn Phẩm, Phổ Môn Phẩm cũng phải học bảy năm, sau khi tốt nghiệp ra trường bạn chính là Quán Thế Âm Bồ Tát. Chúng ta có thể mở rất nhiều giáo trình, chúng ta ở nơi đây tạo thành một thôn học của Phật Bồ Tát, chúng ta phải ở trong trường học này lấy được học vị. Học vị ở chỗ này là Phật, là Bồ Tát. Chỉ cần bạn một môn tinh tấn không giải đãi, bạn nhất định có thể lấy được cái học vị này, sau đó mới có năng lực giáo hóa chúng sanh. Xin nói với các vị, một môn thông rồithì mỗi môn đều thông, đây là chỗ Phật pháp không giống như thế gian pháp. Thế pháp, bạn ở trong đại học học một môn, dù bạn có học được thành công hơn môn đó thì ở môn hệ khác bạn không hề biết, bạn không hiểu. Phật pháp không như vậy, Phật pháp một thứ thông rồi là một kinh thông thì tất cả kinh thông. Do nguyên nhân gì? Phật pháp là dạy bạn minh tâm kiến tánh, bao gồm tất cả kinh giáo đều là từ trong tự tánh lưu xuất ra, cho nên bạn từ bất cứ môn nào kiến tánh thì bạn liền có thể thông đạt tất cả pháp tướng. Tất cả pháp tướng đều là nương tự tánh mà lưu xuất ra, thế nhưng sau khi bạn thông đạt thì tất cả kinh đều thông, đương nhiên tất cả kinh bạn đều có thể giảng được tốt, liền không khác gì với Thích Ca Mâu Ni Phật.

Vào lúc này có thể dùng thái độ của Phật xuất hiệnthế gian này không? Không thể, vì sao vậy? Căn tánh chúng sanh hiện tại không như thời đại đó của Thích Ca Mâu Ni Phật, bạn phải quán cơ nói pháp. Thời đại hiện tại này, chư Phật đến cũng phải thị hiện Bồ Tát, không thể thị hiện thân phận của Phật. Phật là đại thông gia, bất cứ kinh nào cũng đều có thể giảng, Bồ Tát không phải là thông gia, là chuyên gia, chỉ giảng một môn, đây là Phật cùng Bồ Tát không giống nhau. Các vị phải tỉ mỉ mà nghĩ xem, bạn chính mình bản thân là Phật, là đại thông gia, bạn phải xem thấy căn tánh của tất cả chúng sanh để biết nên thị hiện thế nào. Thị hiện Bồ Tát, thị hiện chuyên gia, khuyên người tinh tấn, đây là bạn đại từ đại bi. Không phải bạn không thông, mà là chúng sanh không thông, chúng sanh học hai ba thứ thì không thể nhập môn. Chính mình cần phải làm ra một tấm gương, thị hiện một môn, ta một môn thông rồi, bạn học với tôi một môn, bạn cũng thông, như vậy thì họ mới có thể tin tưởng. Từ những chỗ này chúng ta chân thật thể hội được, Phật Bồ Táttừ bi vô tận, quan tâm thương yêu đối với chúng sanh không bỏ sót một ai, làm ra vô số thị hiện, làm gương mẫu cho chúng sanh, dạy bảo chúng sanh tinh tấn. Ý nghĩa này chúng ta luôn phải có thể thể hội được. Cho nên tương lai chúng ta ở trong Phật học viện, phương pháp xếp giáo trình học giáo học chúng ta quyết địnhtuân thủ giáo huấn của Phật Đà, nhất định không thể trái phạm. Chúng ta trái ngược thì chúng ta nhất định thất bại, chúng ta tuân thủ thì quyết địnhthành tựu. Hy vọng các vị đều có thể tu hành chứng quả, đều có thể chân thật lấy được học vị của Bồ Tát, Phật học viện của chúng ta thành công rồi.

Các ý nghĩa khác của tinh tấn, thông thường kinh luận nói được rất nhiều, các vị cũng nghe được rất nhiều, không cần phải nói nhiều, chúng ta đặc biệt cường điệu, quyết định phải chuyên tinh. Tịnh Tông tu chính là sáu môn, là năm kinh một luận, tùy theo chính bạn hứng thú chọn lấy bất cứ bộ nào, chỉ cần chuyên tinh thì đều có thể thành công. Bao gồm tất cả kinh luận Đại thừa, Tiểu thừa, bao gồm điển tích của thế gian có thể làm tham khảo, có thể làm bổ trợ, giống như đi học ở trường vậy, chúng ta tu chính khoá, trợ tu thì nhất định phải phân ra rõ ràng tường tận, thông suốt thấu đáo. Bộ kinh nào có thể giúp cho ta tu chính khoá, thì bộ kinh đó có thể tham khảo; nếu bộ kinh luận nào không giúp cho ta tu chính, chúng ta tạm thời có thể không nên chú ý đến nó, nhất định phải đem toàn bộ tinh thần thời gian tập trung lại. Thái độ tu học, trong lúc giảng dạy cũng đã giảng nói rất nhiều là Tín-Giải-Hành-Chứng. Tín-Giải-Hành-Chứng trên kinh Hoa Nghiêm nói rất hay, hành bố viên dungđồng thời, tuy có thứ lớp, thế nhưng nó là dung thông, một tức là bốn, bốn tức là một thì chúng ta mới có thể vào được cảnh giới. Muốn đem nó phân thành bốn giai đoạn thì khó, cái đạo lý này phải hiểu. Hành bố không ngại viên dung, hành bố là thứ đệ, hay nói cách khác, thứ đệ không chướng ngại viên dung, trong viên dung không chướng ngại thứ đệ. Đạo lý cùng sự thật này, trên kinh Hoa Nghiêm giảng nói được rất nhiều rất rõ ràng, chúng ta hiểu rõ liền biết được làm thế nào tu học.

Thứ năm, thiền định ba la mật.

Tinh tấn thì mới có thể đạt đến một khóa mục sau, tức là thiền định. Phía trước chúng ta giảng nhẫn nhục Ba La Mật, nhẫn nhục là tiền phương tiện của Thiền định. Các vị nghĩ xem, nếu như đều không thể nhẫn thì bạn làm sao được định? Cho nên từ nhẫn nhục lại thêm vào tinh tấn, bạn liền được định. Định là thọ dụng chân thật, định là định ở nhất. Cái “nhất” này không phải là chuyên nhất, không phải duy nhất, không phải độc nhất, mà là tuỳ nhất, vậy thì Phật pháp mới viên dung. Tôi học kinh Vô Lượng Thọ, tâm của tôi liền định ngay ở trên kinh Vô Lượng Thọ. Tôi học kinh Kim Cang thì tâm của tôi định ngay ở trên kinh Kim Cang. Pháp môn tu học của mỗi một người không giống nhau, thì điểm định của mỗi người cũng không giống nhau, cho nên “nhất” là tùy nhất, không phải duy nhất. Như vậy mới hiển thị ra pháp môn bình đẳng, không có cao thấp, bạn ở trong bất cứ một pháp môn nào đều có thể được định. Định chính là Tam muội. Từ Tam muội mới khai trí tuệ.

Pháp môn tuy là nhiều, một pháp môn nào khế hợp với căn cơ của chính mình thì nhất định phải nắm lấy. Vì sao vậy? Pháp môn khế cơ dễ dàng thành công, pháp môn không khế cơ thì rất khó thành công, do đó tu học chọn lựa pháp môn và tương lai tu hành chứng quả đối với bạn quan hệ rất lớn. Nếu bạn chọn sai, chọn lựa pháp môn rất không dễ tu học thì bạn khó có được thành tựu. Nhất định phải chọn khế hợp căn cơ của chính mình. Thế nhưng việc chọn lựa pháp mônđại học vấn, trí tuệ chân thật. Khi Phật còn tại thế không có vấn đề, Phật chứng được trí tuệ cứu cánh viên mãn, bất cứ chúng sanh nào thân cận với Phật Đà, Phật vừa nhìn liền rõ ràng tường tận đối với căn tánh của họ, Phật biết được đời quá khứ của họ, đời đời kiếp kiếp vô số hành nghiệp Phật thảy đều biết, cho nên chân thật có thể tùy bệnh mà cho thuốc, thuốc đến bệnh khỏi, nói pháp khế cơ. Sau khi Phật diệt độ, cũng có một số đệ tử tu hành chứng quả Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác, các Ngài cũng có năng lực quán cơ, thế nhưng quả của các Ngài chứng không phải là quả cứu cánh viên mãn, do đó năng lực quán cơ không hề viên mãn như Thế Tôn. Thí dụ A La Hán có thể quán sát quá khứ năm trăm đời của một chúng sanh, trước năm trăm đời thì A La Hán không biết được, thì không có năng lực, tình huống ngay trong năm trăm năm gần đây của bạn thì họ biết được, do đó họ nói pháp cũng tương đối khế cơ, nhưng không hề cứu cánh viên mãn như Phật. Như vậy cũng xem là không tệ. Thế nhưng đến ngày nay, chúng ta gặp được thiện tri thức giảng kinh nói pháp đều là thân phàm phu, đừng nói bạn quá khứ một đời họ cũng không biết, mà ngay cái thân hiện tại này, thí dụ nói năm nay bạn 30 tuổi, sự việc của 30 năm về trước họ đều không biết được, bạn ngày trước học cái gì, làm việc gì họ đều không biết thì nói pháp làm gì khế cơ? Đây là chỗ khó khăn của thân phàm phu. Giống như đại phu xem thấy người bệnh, không biết tí gì đối với bệnh án của bệnh nhân, vì sao bị bệnh này, bị bệnh bao lâu, họ đều không biết. Xem thấy tình hình hiện tại của bạn, cho bạn dùng thuốc, dùng thuốc đều là có tính thăm dò, sợ xảy ra vấn đề. Có một số tùy ý, không hiểu thấu hết mà cho thuốc bạn, vừa cho thuốc sai, người học Phật này liền học ra bệnh thần kinh, Phật pháp chúng ta gọi là Ma dựa. Bạn xem thấy có nhiều ít? Nơi nơi chúng ta đều xem thấy có rất nhiều người, tuổi còn rất trẻ, đi học thì rất giỏi, tốt nghiệp đại học rồi, thậm chí có được học vị Thạc sĩ, Tiến sĩ rồi, học Phật được một hai năm thì bị thần kinh phân liệt, thật đáng thương, tiền đồ thảy đều bị hủy diệt. Đó là gì vậy? Đại phu đã cho sai thuốc, pháp không xứng cơ làm hại pháp thân huệ mạng của người. Việc này chúng ta không thể không biết, không thể không cảnh giác.

Thiền định trong pháp môn niệm Phật chính là nhất tâm bất loạn, tâm thanh tịnh. Trên đề kinh Vô Lượng Thọ đã nói là “thanh tịnh, bình đẳng, giác”. Thanh tịnh bình đẳng chính là thuộc về thiền định, thanh tịnh bình đẳngcông phu, không phải chỉ nghe qua thì bạn liền được tâm thanh tịnh, liền được tâm bình đẳng, làm gì mà dễ dàng như vậy. Thế nào gọi là thanh tịnh? Không tiêm nhiễm đối với thế xuất thế gian pháp mới gọi là thanh tịnh. Các vị đồng tu phải ghi nhớ, không bị ô nhiễm không phải nói là bạn không tiếp xúc. Bạn có thể tiếp xúc, tiếp xúc mà không thể tiêm nhiễm, tông môn có một câu nói rất hay gọi là “bách hoa tùng trung quá, nhất diệp bất triêm thân”, đó chính là thiền định. Đây là thí dụ sáu căn chúng ta có thể tiếp xúc với cảnh giới sáu trần bên ngoài, biết được cảnh giới sáu trầnhuyễn tướng, mộng huyễn bào ảnh, cho nên trong tâm đối với cảnh giới bên ngoài đích thực là không có phân biệt, không có chấp trước, đây chính là phiến lá không dính thân. Bạn vừa khởi niệm phân biệt đối với cảnh giới bên ngoài, khởi một niệm chấp trước, bạn liền bị ô nhiễm, thì bạn không có sức định. Cho nên, tiền phương tiện của thiền định là nhẫn nại, là nhẫn nhục. Nhẫn nhục chính là ý nghĩa của nhẫn nại. Chúng ta tu định nhất định phải vào từ cửa nhẫn trước, nhẫn là tiền phương tiện của thiền định. Thiền định trong tu họcthọ dụng chân thật, cho nên thiền định cũng gọi là Tam muội.

Tam muội là tiếng Phạn, từ trên mặt chữ mà dịch là chánh thọ, hưởng thụ bình thường. Cái gì là hưởng thụ bình thường? Phật nói với chúng ta phàm phu sáu cõi hưởng thụ không bình thường, khái quát phân làm năm loại lớn là khổ, vui, ưu, hỉ, xả, đây là hưởng thụ của phàm phu sáu cõi. Thân có khổ lạc thọ, tâm có ưu hỉ thọ, ngay thân không có khổ vui, tâm không lo mừng thì vào lúc này gọi là xả thọ. Tổng cộng hưởng thụ năm loại lớn. Chánh thọ là gì? Năm loại hưởng thụ thảy đều không có, đó chính là chánh thọ. Thiền địnhchánh thọ. Hưởng thụ của chư Phật Bồ Tát, loại hưởng thụ này tuyệt nhiên không lìa khỏi thế gian chúng ta. Phật Bồ Tát thị hiệnthế gian chúng ta, các vị xem thấy trong kinh Hoa Nghiêm, sau cùng 53 vị đồng tham, thân phận của 53 vị thiện tri thức này là nam nữ già trẻ, các ngành các nghề, cái ý này liền hiển thị chư Phật Bồ Tát ở chỗ nào? Đã hòa thành một mảng đời sống của chúng ta. Chúng ta từ sớm đến tối đã tiếp xúc một số người sự vật, bên trong đó có rất nhiều chư Phật Bồ Tát, đáng tiếc chúng ta không nhận biết. Đến lúc nào bạn có thể nhận thức? Bạn đọc thông kinh Hoa Nghiêm thì bạn liền nhận thức, bạn liền nhận biết chung quanh chúng ta chân thật là không ít Phật Bồ Tát đang ở đây. Đây là sự thật. Những người đó vì sao là Phật Bồ Tát? Họ hòa thành một khối trong đời sống chúng ta, nhưng hưởng thụ không như nhau. Hưởng thụ của chúng ta là khổ vui mừng lo xả, hưởng thụ của các Ngài là chánh thọ. Không luận là thân phận như thế nào, không luận từ nơi một nghề nghiệp nào, tâm địa của họ là thanh tịnh, không nhiễm một trần, tự tại an lạc. Con người đó không phải là phàm phu, con người đó chính là Phật Bồ Tát thị hiện. Bạn phải biết nhìn, bạn phải khéo vận dụng sáu căn của bạn, bạn có thể quán sát chung quanh có rất nhiều Phật Bồ Tát, có rất nhiều thiện tri thức chân thật, chúng ta phải nên học tập với họ.

Thiền định còn một ý nghĩachủ tể, trong lòng có chủ tể, không thể bị cảnh giới bên ngoài dao động, đó là sức định. Ta tu học pháp môn này, hoặc giả là bạn y theo Kinh Vô Lượng Thọtu học, hoặc giảy theo Kinh A Di Đàtu học, đây là giả thuyết chúng ta chọn lấy bộ kinh này, pháp môn này. Người khác đến nói Phật pháp thế nào cho ta nghe, nói pháp môn như thế nào, ta chắp tay cung kính, ta quyết không thay đổi, ta một môn học tập đến cùng, đây là trong tâm bạn có sức định, bạn có chủ tể.

Trong quá trình học tập, chúng ta thường hay gặp một số đồng tu đến nói với tôi là nghe một người nào đó nói, một vị pháp sư nào đó nói phương pháp niệm Phật của chúng ta đây vẫn chưa phải là tốt nhất, phương pháp của họ còn thù thắng hơn chúng ta, thế là tâm liền dao động. Đó là gì vậy? Bạn không có sức định, người bên cạnh dùng quạt phẩy nhè nhẹ thì bạn liền dao động, thì bạn làm sao có thành tựu? Họ nói pháp môn này của họ tốt hơn chúng ta thì bạn theo học với họ, vừa qua được mấy ngày lại gặp một người khác nói phương pháp còn tốt hơn so với người này, vậy là bạn liền chạy qua bên đó. Đứng núi này nhìn núi nọ, ngay trong một đời này của bạn ngày ngày chuyển đổi pháp môn, đến sau cùng một môn cũng không thể thành tựu. Nói pháp môn này cao, pháp môn kia thấp, trên kinh Kim Cang lời Phật nói là “pháp môn bình đẳng, không có cao thấp” phải mau sửa đổi lại “pháp môn không bình đẳng, có cao có thấp”. Đây là bạn ngu si. Yêu ma quỷ quái chỉ có thể dao động tâm người ngu si, vì sao vậy? Họ không có chủ tể, họ không có sức định. Không có chủ tể rất dễ bị thiệt thòi, rất dễ bị lừa gạt. Người tâm có chủ tể, người có sức định không thể bị dao động.

Sự việc này, các vị phải cố gắng mà đọc Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Tứ Thiệp Sớ, là chú giải của đại sư Thiện Đạo, đặc biệt xem đoạn chú giải Thượng Phẩm Thượng Sanh Chương. Đoạn chú giải đó Ngài chú giải được rất tường tận. Chúng ta đã từng giảng qua toàn kinh này, cũng đặc biệt giảng qua đoạn này, Thượng Phẩm Thượng Sanh Chương, tôi nhớ được tôi đã giảng qua đoạn này rất tỉ mỉ. Nếu bạn chân thật ở trong đoạn này thể hội được thì tâm của bạn liền có chủ tể, không thể dao động. Đại sư Thiện Đạo nói, đừng nói thiện tri thức đến khuyên chúng ta đổi pháp môn, Thích Ca Mâu Ni Phật đến nói cũng không làm, tất cả chư Phật Như Lai đến nói cũng không làm, bạn có thể nói với chư Phật Như Lai là con đã chọn lấy pháp môn này, pháp môn đó tuy là tốt nhưng để dành cho người khác học, con vẫn là học pháp môn này. Kiên trì đến cùng. Đại sư Thiện Đạo dạy chúng ta bí quyết, Phật đến khuyên chúng ta, chúng ta cũng không dao động, huống hồ là thiện tri thức gì đó. Đại sư Thiện Đạo nêu ra thí dụ này rất hay, chúng ta phải suy xét nhiều, nếu không thì đạo tâm này của chúng ta gọi là đạo tâm sương sớm, nước trên lục bình, tùy theo gió dao động, không có gốc, thì làm sao bạn có thành tựu?

Thế Tôn có thể nói là từ bi đến cùng tột, biết được tâm bệnh của chúng sanh thời mạt pháp, cho nên trước khi nhập diệt, Ngài lưu lại cho chúng ta “tứ y pháp”, giúp cho các đệ tử về sau, ở ngay trong một đời bảo đảm tu học thành tựu. Trong tứ y pháp, câu thứ nhất liền dạy chúng ta “y pháp bất y nhân”. Phàm hễ không thể thành tựutrái với giáo huấn của Phật Đà, họ làm gì vậy? Họ y người không y pháp thì nhất định thất bại. Chúng ta phải luôn ghi nhớ lời giáo huấn này của Thế Tôn. Niệm Phật, người Nhật Bản đề xướng bổn nguyện niệm Phật, họ nói pháp môn này tốt, siêu vượt hơn chúng ta rất nhiều, họ nói người Trung Quốc chúng ta niệm Phật đều là sanh biên địa nghi thành, họ niệm Phật thì thượng thượng phẩm vãng sanh. Bổn nguyện niệm Phật có ra từ bộ kinh nào? Tịnh Độ có ba kinh một luận, sau đó tổ sư thêm vào là năm kinh một luận. Trong năm kinh một luận đều không có nói bổn nguyện niệm Phật. Trên kinh Vô Lượng Thọ, trong phẩm ba bậc vãng sanh, điều kiện nói ra rất rõ ràng tường tận, bạn không nghe, lại nghe người ta ăn nói xằng bậy. Thành thật mà nói, chúng ta niệm Phật sanh biên địa nghi thành cũng không tệ, họ như vậy ngay đến biên địa nghi thành cũng không có phần, kém xa so với ta, vì sao vậy? Gây rối sanh sự, hủy báng Phật pháp, phá hoại tín tâm của chúng sanh, đoạn tất cả pháp thân huệ mạng của chúng sanh, bạn thử nghĩ xem quả báo của họ ở đâu? Chúng ta quyết định y theo giáo huấn của kinh điển, y pháp bất y nhân, họ tu của họ, ta tu của ta.

Các vị cũng đã từng nghe nói qua, Lão Hòa Thượng Đế Nhàn có một đồ đệ là một người thợ vá nồi, ông không hiểu bất cứ thứ gì, Lão Hòa Thượng chỉ dạy ông một câu “Nam Mô A Di Đà Phật”, một lòng chuyên niệm, niệm mệt rồi thì nghỉ ngơi, nghỉ ngơi khoẻ rồi thì phải mau niệm tiếp. Ông niệm đến ba năm, bốn năm thì đứng vãng sanh. Những người này đến hiện thân nói pháp cho chúng ta xem. Vì sao ông có được loại công phu này? Ông chỉ một câu A Di Đà Phật, tâm của ông định ở trên câu A Di Đà Phật, ngoài A Di Đà Phật ra, trong lòng ông không có vọng tưởng, không có phân biệt, không có chấp trước, không có tạp niệm. Một lòng chuyên niệm ông đã làm được. Trên Kinh Vô Lượng Thọ dạy chúng ta bí quyết niệm Phật có tám chữ: “Phát tâm Bồ Đề, một lòng chuyên niệm”, vậy thì người thợ vá nồi có phát tâm Bồ Đề hay không? Thực tế mà nói cái gì gọi là tâm Bồ Đề ông không hiểu, nhưng tâm của ông có phát hay không? Có, nhưng chính ông cũng không hề biết. Đại sư Ngẫu Ích nói rất hay, bạn xem trong Di Đà Kinh Yếu Giải nói: “Một lòng một dạ chuyên cầu vãng sanh thế giới Cực Lạc, một lòng một dạ chỉ muốn thấy A Di Đà Phật, cái tâm này chính là tâm Vô Thượng Bồ Đề”. Cách nói này, các đại đức xưa trước đại sư Ngẫu Ích chưa nói qua, chúng ta ở trong tất cả văn tự ghi chép cũng chưa nghe nói qua, đại sư Ngẫu Ích nói có đúng không? Chúng ta tỉ mỉ mà tư duy, Ngài nói không hề sai, một lòng hướng Phật, đây không phải là tâm Vô Thượng Bồ Đề thì là tâm gì? Cho nên chúng ta xem thấy rất nhiều lão ông, lão thái bà không biết chữ nào, không biết thứ gì, kinh giáo thì chưa nghe buổi giảng nào, niệm Phật qua hai ba năm thì đứng mà vãng sanh, ngồi mà vãng sanh, biết trước giờ chết, họ lại không bị bệnh, lúc ra đi tướng lạ rất đẹp. Đây chính là chuyên tinh. Thời gian của họ tuy là không dài nhưng họ được định, được niệm Phật tam muội, chính là nói họ được nhất tâm bất loạn, tâm của họ không điên đảo, rõ ràng tường tận, thông suốt thấu đáo, họ đi đến thế giới Cực Lạc, họ thành công rồi.

thế gian này, pháp sư giảng kinh nói pháp, pháp sư tu học các pháp môn khác cũng không bằng ông, không thể so với ông. Không thể so sánh ở điểm nào? Người ta chuyên tinh, pháp sư giảng kinh chúng ta có lúc vẫn còn phải đọc kinh, có những lúc vẫn còn phải chuẩn bị, không thể không phân tâm, còn phải tiếp xúc thính chúng, còn có rất nhiều những thù đáp không có cách gì cự tuyệt, cho nên không thể bằng được những ông già bà lão đó. Họ vậy mà tốt, có đại phước báo, người thế gian xem thường họ, không thèm để ý đến họ, đó là đại phước báo, bạn hiểu hay không? Quyết không thể nói quen biết người nhiều, có danh tiếng trong xã hội thì con người đó có phước. Con người này một chút phước báo cũng không có, người tìm gây phiền phức cho họ quá nhiều. Lão thái bà vô tri vô thức, không có người tìm gây phiền phức cho bà, vậy mới gọi là đại phước báo. Ngay trong một đời niệm Phật, không có người quấy nhiễu họ, không có người phá hoại công phu của họ. Cái gì gọi là phước báo? Người thông thường không hiểu được rõ ràng, người chân thật có đại phước báo bạn không nhận biết, người hoàn toàn không có phước báo thì cho rằng con người này phước báo rất lớn, giao tế qua lại rất rộng, một ngày từ sớm đến tối bù đầu bù cổ, bận đến sau cùng đi vào trong ba đường, phước báo ở chỗ nào vậy? Quả báo của họ là ba đường ác. Con người này ở thế gian lại không có tiền của, lại không có địa vị, không có người nào xem trọng họ, một lòng niệm Phật, quả báo của họ ở thế giới Cực Lạc, ngày ngày đứng ở bên cạnh A Di Đà Phật, ai nhận biết được rõ ràng?

Hiện tại chúng ta đang tích cực trù bị xây niệm Phật đường, trù bị xây thôn Di Đà, tương lai có thể vào trong thôn Di Đà để niệm Phật, đó là đại phước báo đệ nhất đẳng ngay trong thế kỷ này. Đến nơi đó niệm Phật không có người quấy nhiễu bạn, chúng ta sẽ có rất nhiều hộ pháp hộ trì bạn, không để cho người khác đến quấy nhiễu bạn. Người thân quyến thuộc đến thăm viếng bạn, chúng ta đều sẽ cự tuyệt, khi bạn đang niệm Phật thì không để họ bước vào quấy nhiễu. Tương lai trong thôn Di Đà không lắp đặt điện thoại, vì đã lắp đặt điện thoại thì khó tránh khỏi người trong nhà bạn sẽ thường hay gọi điện đến. Không có điện thoại, cách tuyệt với tin tức bên ngoài. Bên trong cũng không có truyền hình, bạn cũng không xem được tin tức. Thế nhưng bên trong bắt ti vi để bạn xem niệm Phật đường mọi người đang niệm Phật, pháp sư đang giảng kinh, ti vi là để bạn xem những thứ này, hoàn toàn không thể xem được tin tức. Ở trong đó cũng không đặt báo chí, cũng không có tạp chí, cho nên đến ở nơi đó là ngày ngày thiên hạ thái bình, không có bất cứ việc gì, thân tâm của bạn an định, ở nơi đó dễ dụng công, chân thật thành tựu. Các vị đích thực có thể đạt đến nhất tâm bất loạn, cho dù không đạt được nhất tâm bất loạn, công phu thành khối thì nhất địnhthể đạt được. Công phu thành khối là nhất tâm bất loạn hạ hạ phẩm. Phàm phu chúng ta chỉ cần có loại công phu này thì vãng sanh thế giới Cực Lạc liền có phần, cõi phàm thánh đồng cư cũng có phần.

Hôm nay các vị tặng bao đỏ cho tôi, cúng dường cho tôi, tôi nói các vị nghe, cúng dường cho tôi không có phước báo, tôi lập tức chuyển đến thôn Di Đà, phước báo của các vị sẽ lớn hơn, phước báo chân thật, một chút cũng không giả. Tương lai ở nơi đó sẽ có rất nhiều người ở trong đó niệm Phật vãng sanh bất thoái thành Phật, đây là chúng ta có thể xem thấy được, có thể dự kiến. Cho nên những nhân viên phục vụ này của chúng ta, nhân viên làm việc, tôi cũng là làm việc, cư sĩ Lý Mộc Nguyên cũng là phục vụ, nhân viên làm việc, chúng ta làm hộ pháp, chúng ta dùng tâm trạng thế nào để hộ trì mọi người? Tôi đã nói qua rất nhiều rất nhiều lần, chúng ta nhất định phải từ nội tâm chân thành mà phát ra. Mỗi một người niệm Phật bước vào niệm Phật đường đều là cha mẹ quá khứ, chư Phật ở vị lại của chúng ta, chúng ta dùng tâm hiếu thuận, tâm cung kính để phục vụ cho mọi người, để chăm sóc cho mọi người.

Có rất nhiều đồng tu đến nói với tôi, tương lai họ cũng muốn đến các nơi để xây dựng niệm Phật đường, cũng là xây thôn Di Đà, lấy theo mô hình giống như đây mà làm. Họ đến nói với tôi, tôi lắc đầu nói nhất định bạn không làm được. Do nguyên nhân gì vậy? Bạn có thể xem mỗi người như cha mẹ của chính mình hay không? Xem họ như là A Di Đà Phật không? Bạn không có được cái tâm này thì bạn không làm được. Tài lực, vật lực của bạn có thể phong phú hơn chúng tôi nơi đây thì tôi tin, nhưng cái tâm này thì bạn không có, tâm hiếu thuận, tâm cung kính đối với tất cả chúng sanh thì bạn không có, vậy đạo tràng của bạn sẽ không bằng đạo tràng ở đây. Nếu bạn có thể đối với tất cả chúng sanh đầy đủ tâm cung kính, tâm hiếu thuận, thì đạo tràng của bạn sẽ giống y như đạo tràng này vậy. Các vị đến nơi đây, cảm thấy không khí thật khác thường, từ trường không như nhau, đương nhiên khác nhau, tại vì sao không giống? Đạo tràng này có chư Phật Bồ Tát ở nơi đây, niệm Phật đường có chư Phật Bồ Tát cùng đến niệm Phật với mọi người, long thiên thiện thần ủng hộ. Những tướng lạ này có một số đồng tu thấy được đến nói với tôi, thần hộ pháp nhiều, thấy được họ đang xếp hàng. Những tình hình này tôi đều biết được, tôi đều nhận biết, cảm ứng đạo giao không thể nghĩ bàn.

Tóm lại một câu mà nói, tâm nhất định phải có chủ tể, tuyệt đối không bị bất cứ cảnh giới nào dao động. Chúng ta y cứ “A Di Đà Phật”, y cứ kinh Vô Lượng Thọ, chọn lấy trì danh niệm Phật, trong bốn loại phương pháp niệm Phật, chúng ta chọn lấy trì danh niệm Phật, một câu Phật hiệu niệm đến cùng. Chúng ta tu học những phương pháp này là có truyền thừa, không phải chính mình biên tạo ra. Phương pháp của tôi là do lão sư Lý truyền cho tôi, lão sư Lý là được đại sư Ấn Quang truyền lại, cho nên truyền thừa của chúng ta là từ nơi đại sư Ấn Quang mà có. Núi Linh Nham Tô Châu là tổ đình của chúng ta, pháp mạch của chúng tamột mạch truyền thừa. Y theo phương pháp này tu học, người có được thành tựu thật quá nhiều, chúng ta chính mắt thấy được, chính tai nghe được, làm sao có thể khinh xuất bị người khác dao động? Tại vì sao chúng ta tu họctín tâm này cũng không có? Các vị nghe qua những lời trống rỗng, đến hỏi tôi đã là sai rồi. Bạn đến hỏi tôi, tôi liền biết bạn không có lòng tin. Nếu như bạn có lòng tin thì bạn sẽ không chạy đến trước mặt tôi để nói những lời này. Cho nên đây là ý nghĩa thứ hai của thiền định, chính mình ở trong cảnh giới quyết định có được chủ tể.

Bồ Tát tu học sáu cái cương mục này, từ bố thí đến thiền định đều là thuộc về sự tướng. Hiện tại chúng ta gọi là thực tiễn ngay trong cuộc sống thường ngày, thực tiễn ngay trong công việc năm cương mục này. Cái sau cùng là trí tuệ, trí tuệ Bát Nhã.

Thứ sáu, Trí Tuệ Bát Nhã.

Trí tuệ không phải là sự, trí tuệ không có dấu tích có thể tìm, thế nhưng trí tuệtinh túy của tu học. Bát Nhã từ chỗ nào mà hiển thị? Từ trên năm loại sự tướng phía trước mà hiển thị. Làm thế nào hiển thị bạn có trí tuệ, bạn không có trí tuệ? Nếu như bạn tu học không chấp trước, không phân biệt thì bạn có trí tuệ, đó gọi là có Bát Nhã. Bạn tu học còn có phân biệt, còn có chấp trước, bạn không có trí tuệ, bạn không có Bát Nhã. Năm điều phía trước nếu như khôngtrí tuệ thì không thể gọi là độ, bố thí thì không thể gọi là bố thí Ba La Mật. Ba La Mậttrí tuệ, cho nên nếu khôngtrí tuệ ở trong đó thì năm loại phía trước là phước báo. Tu bố thí, tu trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định thảy đều là phước báo, thiền định cũng là phước báo, sanh tứ thiền thiên, tứ không thiênphước báo của thiền định. Như vậy bạn mới biết được, trong sáu cõi, cái gọi là thiền định thế gian, tứ thiền bát định không có Bát Nhã Ba La Mật. Nếu như có Bát Nhã Ba La Mật, cái thiền định này siêu việt sáu cõi, không ở sáu cõi thọ báo.

Bát Nhã là gì? Sáu trăm quyển kinh Đại Bát Nhã là điển tích quan trọng nhất của Bát Nhã, Thế Tôn năm xưa ở đời đã nói 22 năm. Các vị phải nên biết, Thế Tôn nói pháp tổng cộng 49 năm, 22 năm giảng Bát Nhã. Như vậy chúng ta liền thể hội được, Bát Nhã là khóa mục chủ yếu ở trong Phật pháp. Nếu không phải khoá mục chủ yếu thì vì sao đức Phật dùng thời gian dài đến như vậy để giảng bài khoá này? Là pháp môn tu chính của tất cả Bồ Tát Đại thừa. Lấy Bồ Tát Văn Thù làm đại biểu, chỗ này các vị nên biết, Văn Thù là chủ Bát Nhã. Bát Nhã nói ra là cái gì? Sáu trăm quyển kinh Bát Nhã, nếu các vị lướt qua một lượt, kinh Bát Nhã rất dài, sáu trăm quyển, xem phía trước không biết được phía sau, xem đến phía sau thì quên sạch phía trước. Thế Tôn cũng biết, thời kỳ Mạt Pháp chúng ta đọc sách sẽ có một hiện tượng như vậy, thế nhưng sau khi bạn đọc xong sẽ có một câu nói không thể quên. Câu nói này tại vì sao không thể quên? Trong sáu trăm quyển này đã lập lại mấy ngàn lần, nên ấn tượng này rất sâu sắc. Câu nói này là gì vậy? Có ba chữ “bất khả đắc”, bất khả đắc chính là trí tuệ chân thật, thế xuất thế gian tất cả pháp đều bất khả đắc. Tại vì sao bất khả đắc? Nhân duyên sanh pháp, pháp không phải là thật, là giả có, bạn có thể thấy ra được, có thể phát hiện là trí tuệ, trí tuệ chân thật. Trên kinh Kim Cang rõ ràng nói với chúng ta, ba tâm bất khả đắc tức là tâm quá khứ bất khả đắc, tâm hiện tại bất khả đắc, tâm vị lai bất khả đắc. Chỗ này không thể giảng tỉ mỉ, năm trước ở ngay nơi đây chúng ta đã dùng thời gian rất dài giảng qua một bộ kinh Kim Cang, dường như là mỗi ngày đều giảng, đã giảng qua hơn bốn tháng. Nói ba tâm là nói năng đắc, năng đắc bất khả đắc, sau đó lại nói các pháp, các pháp là bạn sở đắc. Phật ở trên kinh điển đã làm cho chúng ta một tổng kết luận là “chư pháp duyên sanh”. Phàm hễ nhân duyên sanh pháp đều không có tự tánh, ngay thể là không, không thể có được, đây là nói bạn năng đắc sở đắc đều không thể có được, đây là trí tuệ chân thật. Cho nên Phật ở trên câu kệ sau cùng làm một tổng kết:

Tất cả pháp hữu vi

Như mộng huyễn bào ảnh

Như sương cũng như điện

Phải nên thấy như vậy”.

Đây là Bát Nhã, là trí tuệ chân thật. Tất cả pháp hữu vi chính là tất cả vạn pháp.

Các vị đồng tu có không ít người đã đọc qua Bách Pháp Minh Môn Luận. Bách Pháp Minh Môn Luận chỉ là giải thích một câu nói của Thích Ca Mâu Ni Phật. Khi Thế Tôn giảng kinh nói pháp thường hay nói “tất cả pháp vô ngã”. Bồ Tát Di Lặcgiải thích câu nói này, đã tạo ra Du Già Sư Địa Luận. Du Già Sư Địa Luận đem tất cả pháp quy nạp thành 660 pháp. Bồ Tát Thiên Thân cảm thấy 660 pháp quá nhiều, bất tiện cho sơ học, cho nên đem 660 pháp quy nạp lại thành 100 pháp, răn dạy cho sơ học thuận tiện. Cho nên các vị phải nên biết, trăm pháp vừa triển khai ra chính là 660 pháp, 660 pháp lại triển khai ra chính là tất cả pháp, cho nên trăm pháp là thâu tóm rút gọn của tất cả pháp thế xuất thế gian, trong đó hữu vi pháp đã chiếm hết 94 loại, chỉ có 6 loại là thuộc về pháp vô vi. Trên kinh Bát Nhã nói tất cả pháp hữu vi chính là chỉ 94 pháp phía trước trong một trăm pháp, đều là mộng huyễn bào ảnh. Trong 94 pháp, các vị tưởng tượng xem, 8 tâm vương, 51 tâm sở (trong pháp tâm sở có 26 cái phiền não pháp), 11 cái sắc pháp, 24 cái bất tương ưng hành pháp, chỗ này hợp lại 94 pháp gọi là pháp hữu vi, đều không phải là chân thật, Phật dùng thí dụ để nói là như mộng huyễn bào ảnh. Những pháp này gọi là tướng có thể không, sự có lý không, nó có phải chân thật đang tồn tại hay không? Không tồn tại, “như lộ cũng như điện”. Như điện là nói rõ cho chúng ta chân tướng sự thật, nó không tồn tại, nó là sát na sanh diệt. Chúng ta ở phía trước của kinh Hoa Nghiêm tỉ mỉ nói qua với các vị, ngày nay chúng ta hiểu lầm cho rằng những hiện tượng này sẽ tồn tại, là sự việc thế nào vậy? Là tướng tương tục của nó. Cho nên tướng tương tục tướng thí dụ như sương, cũng không phải là tướng tiếp nối lâu dài, là tướng tiếp nối rất ngắn. Con người chúng ta, cái thân thể này, kỳ thật cái thân này là sát na sanh diệt nhưng chúng ta không thể phát hiện ra. Chúng ta xem thấy một người sống được mấy chục năm rồi chết, mấy mươi năm này là sát na tướng tiếp nối tướng. Chân tướng của nó là gì vậy? Chân tướngsát na sanh diệt, sanh diệt đồng thời. Sanh diệt đồng thời chính là không sanh không diệt, không có sanh diệt, nói sanh nó diệt rồi, nói diệt nó lại sanh, cho nên Phật nói loại hiện tượng này là bất thường bất đoạn. Bạn nói nó thường, nó lập tức liền diệt; bạn nói nó diệt, cái tướng phía sau lại sanh, ý niệm là cái hiện tượng này, trên hình tướng cũng là cái hiện tượng này, cho nên tất cả sự tướng cũng là phi thường phi đoạn, phi nhất phi dị, đây mới là chân tướng sự thật. Bạn đem chân tướng sự thật này làm cho rõ ràng, thấy tường tận, con người này mới gọi là có trí tuệ.

Bồ Tát hiện thân nói pháp, giáo hoá chúng sanh, hằng tu lục độ pháp môn. Hằng là thường, vĩnh viễn không hề gián đoạn. Tuy tu lục độ pháp môn nhưng quyết định không chấp trước có năng tu, có sở tu. Nếu họ chấp trướcnăng sở thì họ là phàm phu, họ tu được là phước, họ không phải tu lục độ. Lục độ mà họ đã tu, tuy là họ rất nỗ lực, rất cố gắngtu tập, một chút chấp trước cũng không có. Không những không có chấp trước, ngay đến ý niệm phân biệt cũng đều không có. Việc này chúng ta không cách gì tưởng tượng, con người này nếu không phân biệt, không chấp trước thì họ làm sao mà làm việc? Không luận là bạn tu bố thí, tu trì giới, tu nhẫn nhục, bạn không phân biệt, không chấp trước thì bạn tu bằng cách nào? Cho nên ở trên kinh Phật mới dùng ba chữ “bất tư nghì”, cảnh giới của Phật Bồ Tát không thể nghĩ bàn, ý nghĩa chính là nói phàm phu chúng ta không thể nghĩ đến. Các Ngài chân thật là không có phân biệt, không có chấp trước, sự việc làm được rất viên mãn, làm được rất chu đáo, đích thực là không có khởi tâm, không có động niệm, không có phân biệt, không có chấp trước. Bạn muốn hỏi họ làm sao có thể thành tựu? Không thể nghĩ bàn. Chúng ta cũng nói không thể nghĩ bàn, dường như lời nói này không có câu trả lời vậy, bạn nghe rồi nhất định rất không vừa lòng, một câu “bất khả tư nghì” thì phủ lấp hết. Những tôn giáo khác đã nói vũ trụ từ nơi đâu mà có, con người từ nơi đâu mà có? Thượng đế tạo. Nhưng Thượng đế từ nơi đâu mà có thì không biết được. Trong Phật pháp nói không thể nghĩ bàn, thực tế mà nói chính là hai câu trong hạnh nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền: “Hằng thuận chúng sanh, tùy hỉ công đức”, họ là như vậy mà thành tựu. Cho nên tùy duyên chính là khóa mục quan trọng chúng ta tu học, khởi tâm động niệm là phan duyên. Phan duyênphàm phu, tùy duyên là Phật Bồ Tát. Tùy duyên chính là cứ thế mà làm, làm được rất hoan hỉ, rất vui mừng, rất chăm chỉ, rất nỗ lực.

Cư sĩ Lý Mộc Nguyên chưa từng ngơi nghỉ, buổi tối hôm nay phải đi dự hội, bận rộn suốt cả ngày, nửa đêm mà vẫn chưa thể ngủ nghỉ. Hằng thuận chúng sanh tùy hỉ công đức, bạn xem tinh thần thể lực của ông tốt đến như vậy, ông không phải vì chính mình mà làm, mà là vì chúng sanh làm. Vì chúng sanh làm cũng không dính vào cái tướng chúng sanh, cũng không chấp trước cái tướng đã tạo, đây gọi là trí tuệ, gọi là Bát Nhã Ba La Mật. Trong bố thí không chấp tướng, kinh Bát Nhã nói tam luân thể không, không chấp trước có thể thí, cũng không chấp trước đã thí, cũng không chấp trước vật thí, bạn đã cho những vật gì thảy đều không chấp trước, đây gọi là Bát Nhã Ba La Mật, bố thí cũng gọi là bố thí Ba La Mật. Trì giớikhông chấp trước năng trì sở trì, đây gọi là trì giới Ba La Mật. Cứ như vậy mãi đến thiền định. Do đây có thể biết, từng li từng tí ngay trong cuộc sống thường ngày, chúng ta có thể xả bỏ đi năng sở thì Bát Nhã Ba La Mật liền hiện tiền. Chỉ cần bạn còn rơi vào trong năng sở, chính mình nhất định phải nên biết, là không có trí tuệ. Không có trí tuệ thì tất cả tu học đều là phước báo. Đại sư Huệ Năng ở trong Đàn Kinh giảng rất hay: “Sự việc này phước không thể giải quyết”, sự việc này là chỉ sự việc gì? Việc lớn sanh tử, thoát khỏi sáu cõi luân hồi thì phước báo không thể giải quyết. Hay nói cách khác, bạn tu bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định không thể giải quyết, quyết định không thể ra khỏi sáu cõi luân hồi. Nếu muốn ra khỏi sáu cõi luân hồi, cái gì có thể giải quyết? Bát Nhã Ba La Mật thì có thể giải quyết, Bát Nhã Ba La Mật có thể giúp bạn thoát khỏi sáu cõi luân hồi, có thể giúp bạn thoát khỏi mười pháp giới. Giáo học của Bát Nhã liền biến thành khoá mục trung tâm của Phật pháp, đạo lý chính ngay chỗ này. Cái ý niệm này, Thích Ca Mâu Ni Phật đã nói ra tất cả kinh, không luận Đại thừa-Tiểu thừa, Tông môn-Giáo hạ, trong tất cả kinh luận đều không rời khỏi Bát Nhã Ba La Mật, vì sao vậy? Bát Nhã Ba La Mậtgiáo thể của tất cả kinh giáo, cũng chính là nói tất cả kinh giáo từ trong Bát Nhã Ba La Mật mà sanh ra. Kinh Đại thừa tổ sư phán giáo, biện thể, tất cả kinh Đại thừa dùng cái gì làm thể? Lấy thật tướng làm thể. Thật tướngBát Nhã, cho nên Bát Nhã Ba La Mật ở chỗ nào vậy? Trong kinh văn từng câu từng chữ đều có Bát Nhã Ba La Mật, cho nên kinh văn nghĩa thú từng câu từng chữ không có cùng tận, làm gì có thể nói được hết? Giảng giải với mọi người, mỗi một chữ giảng hai giờ đồng hồ, một chút cũng không quá đáng. Hai giờ đồng hồ có thể đem ý nghĩa giảng được hết không? Giảng không hết, hai giờ đồng hồ giảng một câu, giảng một chữ chỉ giảng được đại khái, tuyệt đối không thể giảng được tỉ mỉ. Giảng kỹ từng câu từng chữ, đó chính là trong kinh Phật đã nói là “trần thuyết sát thuyết, vô gián thuyết”, đều nói không cùng tận. Vậy thì do đây có thể biết, trí tuệ Bát Nhã quan trọng. Đoạn kinh văn này chúng ta cũng chỉ có thể giảng đến chỗ này.

Bát Nhã theo cách nói thông thường thì các vị có thể tham khảo chú sớ của đại đức xưa nay. Kim Cang Kinh Giảng Nghĩa của Giang Vị Nông rất hay, Tâm Kinh Thuyên Chú của cư sĩ Châu Chỉ Am cũng hay, chúng ta đọc qua thì đối với Bát Nhã ít nhiều sẽ có chút khái niệm.

Vậy thì hai câu này gọi là bán kệ, bốn câu là một kệ. Bán kệ này là Tỳ Kheo Pháp Tạngchúng ta hiển thị “hành lục độ, bạt chúng khổ”, cũng là trong tứ hoằng thệ nguyện “học pháp môn, đoạn phiền não”, chúng ta dùng hai câu này làm hai câu để tổng kết.

Xem tiếp câu sau: Vị độ hữu tình linh đắc độ. Câu này là nguyện thứ nhất trong tứ hoằng thệ nguyện: “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”. Chúng sanh chưa được độ chúng ta phải giúp cho họ được độ. Đây chính là thường nói tám vạn bốn ngàn pháp môn, vô lượng pháp môn. Lời tuy là nói như vậy, vào lúc nào chúng ta mới có thể dùng vô lượng pháp môn để độ chúng sanh? Thành Phật mới được, không thành Phật không làm được. Trong Phật pháp thường nói, như trong Phổ Môn Phẩm đã nói, Bồ Tát Quán Thế Âm có 32 ứng thân, đáng dùng thân Phật để được độ thì liền hiện thân Phật mà vì đó nói pháp. Hiện thân Phật có thể nói vô lượng pháp môn. Chỗ này các vị phải ghi nhớ, vào lúc nào thì hiện thân Phật? Nhất định phải xem cơ duyên của chúng sanh, cơ duyên chín muồi. Cơ duyên lúc này không phải là một cơ duyên đơn thuần, cũng chính là nói rõ các loại căn tánh cơ duyên khác nhau đều chín muồi, vậy thì bạn hiện thân nói pháp không thể chỉ nói một loại pháp, bạn phải ứng phó các loại căn tánh khác nhau nói ra vô lượng pháp môn, trong cơ duyên này thì bạn nhất định phải hiện thân Phật. Cho nên chư Phật Như Lai vì tất cả chúng sanh hiện thân nói pháp không phải tùy theo ý của riêng mình, mà là ứng cơ thuận chúng sanh. Không phải thuận một số chúng sanh căn tánh chín muồi, mà là rất nhiều loại chúng sanh căn tánh khác nhau thảy đều chín muồi. Đó là thị hiện thân Phật, vì nói vô số pháp môn. Sau khi Phật diệt độ, ngay trong ba ngàn năm không có một vị Phật nào nữa xuất hiện là do nguyên nhân gì? Không có cơ hội này. Về sau luôn luôn có một khu vực, một nơi chốn chúng sanh căn tánh chín muồi, đại đa số là một loại, một loại căn cơ chín muồi, vậy thì hiện thân Bồ Tát, thị hiện một môn thâm nhập.

Ở vào thời kỳ Mạt Pháp, Thế Tôn ở trên kinh Đại Tập nói rất hay: “Thời kỳ Chánh Pháp giới luật thành tựu, thời kỳ Tượng Pháp thiền định thành tựu, thời kỳ Mạt Pháp Tịnh Độ thành tựu”, cái thành tựu này đều là nói căn tánh chín muồi. Vào thời kỳ Chánh Pháp thì một loại người trì giới chứng quả căn cơ chín muồi, thời kỳ Tượng Pháp thì một loại người thiền định căn tánh chín muồi, thời kỳ Mạt Pháp thì một loại người căn tánh Tịnh Độ chín muồi. Chúng ta đọc kinh nghe Phật nói pháp phải hiểu được cái ý của Phật. Việc này đối với chúng ta là giúp chính mình chọn lấy pháp môn, đối với người khác là giúp chúng ta quán cơ, giúp đỡ chúng ta, giúp tất cả hữu tình chưa độ. Vào ngày nay chúng ta đối với quần chúng rộng lớn trong xã hội, chúng ta làm thế nào giúp đỡ họ? Dùng một câu Phật hiệu, một khi nghe qua tai đã mãi trồng thiện căn, chúng ta dùng một câu Phật hiệu của A Di Đà Phật giúp đỡ họ. Cho dù họ tin hay không tin, câu Phật hiệu này họ nghe lọt vào, nghe vào trong A Lại Da Thức thì vĩnh viễn không thể xóa đi, tương lai khi gặp được duyên phận nó sẽ khởi hiện hành, họ sẽ học Phật, họ sẽ niệm Phật vãng sanh bất thoái, họ sẽ vãng sanh thế giới Cực Lạc. Chỉ cần đem câu Phật hiệu này, đem hình tượng của A Di Đà Phật để cho họ xem, vừa nhìn cũng đã rơi vào trong A Lại Da thức. Thấy nghe hình tượng danh hiệu A Di Đà Phật thì được rồi, đây chính là tiếp dẫn chúng sanh rộng lớn.

Ở khu vực Singapore này là vùng nhiệt đới, một năm chỉ có một mùa, không có bốn mùa. Khu vực này thuận tiện, suốt cả năm chỉ mặc chiếc áo thun, không cần phải thêm nhiều quần áo. Trên áo thun chúng ta in câu A Di Đà Phật, ở trên đường đi một vòng thì độ rất nhiều chúng sanh. Cho nên mọi người ra ngoài làm việc, ra ngoài mua rau, mặc trên người chiếc áo có in câu A Di Đà Phật, bạn xem bạn đã độ được rất nhiều người rồi! Làm cho người xem thấy được danh hiệu A Di Đà Phật. Ở nơi đây mọi người đều dùng tiếng Anh rất nhiều, danh hiệu của A Di Đà Phật chúng ta đều in bằng tiếng Anh, tiếng Trung thì các loại người đều được phổ độ. Vậy thì chỗ này, Singapore dùng bốn loại ngôn ngữ, dùng Malay ngữ, Ấn Độ ngữ, tôi hy vọng các vị đồng tu tương lai in danh hiệu của Phật A Di Đà trên áo thun nên in bốn loại ngôn ngữ. Khi mặc chiếc áo này lên đi ra ngoài là đa nguyên văn hoá, phổ độ chúng sanh. “Vị độ chúng sanh linh đắc độ”, chúng ta phải dùng loại phương pháp này. Nhất định phải biết làm, đồ án thiết kế phải cho đẹp, để cho mỗi một người xem thấy đều có thể sanh tâm hoan hỉ. Người thanh niên xã hội ngày nay mặc loại y phục thế nào? Vẽ trên áo đều là vẽ yêu ma quỷ quái, xem thấy đều là hù chết người. Chúng ta mặc cái phục trang này, phía sau in lên câu A Di Đà Phật để độ những yêu ma quỷ quái này. Tôi cảm thấy hiện tại những y phục này chúng ta làm vẫn không đủ, người mặc tuy là nhiều nhưng vẫn chưa phổ biến, phải nên chế tác ra số lượng lớn miễn phí tặng cho. Tương lai bên dưới Cư Sĩ Lâm bố thí thức ăn, cũng bố thí quần áo, chúng ta in những chiếc áo thun này để bên dưới, đến ăn cơm một người lấy một cái đều mặc lên, khi lần sau đến mặc chiếc áo này mới chiêu đãi, không mặc chiếc áo này chúng ta không tiếp đãi họ. Đây là việc tốt. Đây là nói chúng sanh chưa được độ.

Dĩ độ chi giả sử thành Phật”. Chưa độ là loại người nào vậy? Đã tin tưởng pháp môn Tịnh Độ, đã tu học pháp môn Tịnh Độ, có thể nói thời kỳ Mạt Pháp căn tánh chúng sanh loại này đã chín muồi. Người căn tánh chín muồi thì chúng ta quyết định giúp đỡ họ ngay đời này vãng sanh, cho nên chúng ta xây niệm Phật đường, chúng ta xây thôn Di Đà, vì sao vậy? Chính là “dĩ độ chi giả sử thành Phật”. Chúng ta phải thực tiễn câu nói này. Xây thôn Di Đà, xây niệm Phật đường là thực tiễn câu nói này. Không phải chúng ta đọc suông kinh này, mà tận tâm tận lực đem nó làm cho được viên mãn. Căn tánh thuần rồi nhưng vẫn chưa hoàn toàn thuần thục, đã có đến bảy phần tám phần, chúng ta tiếp sức thêm một chút, hiệp trợ thêm cho họ, họ liền đạt đến mười phần. Đạt đến mười phần liền vãng sanh bất thoái thành Phật. Các vị phải nên biết, người đã có bảy phần tám phần rồi, nếu không gặp được cái duyên này thì ngay đời này họ không thể vãng sanh, còn phải đợi đến đời sau. Đời sau không phải là đời kế tiếp sau, mà là không biết được về sau bao nhiêu đời bao nhiêu kiếp, chính là lần sau bạn gặp được cơ duyên này thì thật là không dễ dàng, cái cơ duyên này là “trăm ngàn muôn kiếp khó được gặp”. Cho nên chúng ta hiểu rõ những chân tướng sự thật này, chúng ta phải đặc biệt trân trọng đối với cơ duyên này. Gặp được rồi nhất định không thể để luống qua, gặp được rồi nhất định phải chân thật phát tâm.

Có rất nhiều người hoài nghi, chúng ta gặp được rồi, lần này chúng ta ở nơi đây làm công quả, họ niệm Phật tương lai vãng sanh, vậy chúng tôi tương lai phải làm sao? Nghĩ đến chỗ này thì không muốn làm công quả, hay là vào bên trong niệm Phật tốt hơn? Vậy thì không có người hộ trì. Đại Từ Bồ Tát sớm đã biết, cho nên trên kinh nói với chúng ta, bạn khuyên hai người vãng sanh thì bằng chính mình tinh tấn, bạn khuyên mười mấy người vãng sanh thì công đức của bạn vô lượng vô biên. Bạn có thể hộ trì làm cho họ thảy đều vãng sanh, trừ khi chính bạn không chịu vãng sanh, nếu chính bạn muốn vãng sanh, công phu niệm Phật của bạn không đủ không cần phải lo, khi đến lúc bạn lâm chung, họ nhất định sẽ kéo A Di Đà Phật đến. Họ sẽ nói với A Di Đà Phật là chính nhờ họ giúp tôi vãng sanh nên phải mau đi tiếp dẫn họ. A Di Đà Phật cũng sẽ đến. Người thế gian nay chúng ta vong ân phụ nghĩa, người vãng sanh thế giới Cực Lạc tri ân báo ân, cho nên bạn giúp họ vãng sanh, tương lai họ nhất định giúp bạn vãng sanh. Cái đạo lý này tôi nghĩ mọi người nghe rồi đều có thể gật đầu, đều có thể khẳng định. Công đức của chúng ta tuyệt đối không luống uổng. Cho nên tôi khuyên đồng tu, chúng ta đồng tâm hiệp lực, chúng ta cùng nhau làm công quả, thành tựu những chúng sanh căn tánh chín muồi này. Thành tựu cho họ chính là thành tựu chính mình, tự tha công đức không hai.

(Hết quyển 4) (Còn tiếp ...)

KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC

Pháp sư: HT. TỊNH KHÔNG

Biên dịch: Vọng Tây cư sĩ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32345)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6396)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11027)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30189)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30271)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7861)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 11962)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12131)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11451)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12483)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34284)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9668)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52063)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10580)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10331)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10536)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10311)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12905)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16009)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21601)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9491)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 6984)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10260)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12447)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12614)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16068)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16327)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13687)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16328)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11886)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13651)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14199)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9088)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11636)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11163)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16046)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14214)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16049)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12580)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11904)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11638)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15519)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11361)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13876)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11862)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12415)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14789)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11834)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 12970)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14304)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20449)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13049)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10823)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20524)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14183)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20078)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17395)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13794)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31687)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11879)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant