Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

02. Ojai, 17 tháng sáu 1945

11 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 6389)
02. Ojai, 17 tháng sáu 1945

KRISHNAMURTI
BÀN VỀ XUNG ĐỘT [ON CONFLICT]
Lời dịch: ÔNG KHÔNG – 2009

Ojai, 17 tháng sáu 1945

Người hỏi: Ông phản đối chiến tranh, và tuy nhiên ông không đang ủng hộ nó hay sao?

Krishnamurti: Tất cả chúng ta không đang duy trì sự giết người đồng loạt khủng khiếp này à? Chúng ta chịu trách nhiệm, mỗi người, cho chiến tranh, chiến tranh là một kết quả cuối cùng thuộc sống hàng ngày của chúng ta; nó được hiện diện qua hành động-cảm giác-suy nghĩ hàng ngày của chúng ta. Điều gì chúng ta là, mà chúng ta chiếu rọi trong những liên hệ thuộc tôn giáo, xã hội, nghề nghiệp của chúng ta; điều gì chúng ta là, thế giới là. 

Nếu chúng ta không hiểu rõ những vấn đề chính và phụ được bao hàm trong sự trách nhiệm cho chiến tranh, chúng ta sẽ bị rối loạn và không thể thoát khỏi thảm họa này. Chúng ta phải biết đặt sự quan trọng ở đâu, và chỉ như thế chúng ta sẽ hiểu rõ vấn đề. Kết quả không tránh khỏi của xã hội này là chiến tranh; nó được phục vụ cho chiến tranh; công nghiệp của nó dẫn đến chiến tranh; những giá trị của nó khuyến khích chiến tranh. Bất kỳ điều gì chúng ta làm trong ranh giới của nó đều góp phần vào chiến tranh. Khi chúng ta mua sắm cái gì đó, thuế má đưa vào chiến tranh; những con tem bưu chính giúp đỡ ủng hộ chiến tranh. Chúng ta không thể tẩu thoát khỏi chiến tranh, dù chúng ta sẽ đi bất kỳ nơi nào, đặc biệt hiên nay, bởi vì xã hội được tổ chức cho chiến tranh tổng thể. Công việc vô hạiđơn giản nhất đều đóng góp cho chiến tranh trong một cách này hay một cách khác. Dù chúng ta muốn nó hay không, bằng chính sự tồn tại của chúng ta chúng ta đang giúp đỡ duy trì chiến tranh. Vì vậy chúng ta sẽ làm gì đây? Chúng ta không thể rút vào một hòn đảo hay một cộng đồng sơ khai, bởi vì văn hóa hiện đại có mặt ở khắp mọi nơi. Vì vậy chúng ta có thể làm gì? Chúng ta sẽ từ chối ủng hộ chiến tranh bằng cách không đóng thuế, bằng cách không mua tem? Đó là vấn đề chính à? Nếu nó không phải, và nó chỉ là vấn đề phụ thuộc, vậy thì chúng ta không nên bị rối loạn bởi nó.

Không phải vấn đề cơ bản, vấn đề nguyên nhân của chính chiến tranh, còn không sâu sắc nhiều hơn hay sao? Nếu chúng ta có thể hiểu rõ nguyên nhân của chiến tranh, lúc đó vấn đề phụ có thể tiếp cận từ một quan điểm hoàn toàn khác hẳn, nếu chúng ta không hiểu rõ, vậy thì chúng ta sẽ bị mất hút trong nó. Nếu chúng ta có thể làm tự do chính mình khỏi những nguyên nhân của chiến tranh, vậy thì vấn đề phụ có lẽ không phát sinh.

Vậy là sự quan trọng phải được tập trung vào sự khám phá trong chính mình nguyên nhân của chiến tranh; sự khám phá này phải được thực hiện bởi mỗi người chứ không phải bởi một nhóm người có tổ chức, bởi vì nhóm người có khuynh hướng dẫn đến không suy nghĩ, thuần túy là tuyên truyền và những khẩu hiệu, mà chỉ nuôi dưỡng không-khoan dung và xung đột thêm nữa. Nguyên nhân phải được tự-khám phá, và thế là mỗi người qua sự trải nghiệm trực tiếp tự-giải thoát khỏi nó.

Nếu chúng ta suy nghĩ kỹ càng, chúng ta ý thức được rõ ràng những nguyên nhân của chiến tranh: đam mê, ý muốn xấu xa, và dốt nát; ham muốn dục vọng, theo đuổi vật chất, và thèm khát sự tiếp tục lẫn nổi tiếng thuộc cá thể; tham lam, ganh ghéttham vọng; chủ nghĩa quốc gia cùng sự chủ quyền tách rời của nó, những ranh giới kinh tế, những phân chia xã hội, những thành kiến chủng tộc, và tôn giáo có tổ chức. Mỗi người không thể tỉnh thức được tham lam, ý muốn xấu xa, dốt nát của anh ấy, và vì vậy được tự do khỏi chúng hay sao? Chúng ta bám vào chủ nghĩa quốc gia, bởi vì nó là một lối thoát cho những bản năng vô đạo đức, hung tợn của chúng ta; nhân danh quốc gia hay học thuyết của chúng ta, chúng ta có thể giết chết hay tiêu diệt mà không bị trừng phạt, trở thành những anh hùng, và chúng ta càng giết chết những bạn bè của chúng ta nhiều bao nhiêu, chúng ta càng nhận được sự tôn vinh từ quốc gia của chúng ta nhiều bấy nhiêu.

Lúc này sự giải thoát khỏi nguyên nhân của đau khổxung đột không là vấn đề chính hay sao? Nếu chúng ta không tập trung vào vấn đề này, làm thế nào giải pháp của những vấn đề phụ sẽ chấm dứt chiến tranh? Nếu chúng ta không nhổ bật những nguyên nhân của chiến tranh trong chính chúng ta, nó sẽ có giá trị gì khi hàn gắn những hậu quả bên ngoài thuộc trạng thái bên trong của chúng ta? Chúng ta, mỗi người phải tìm hiểu kỹ càng và dọn dẹp sạch sẽ dục vọng, ý muốn xấu xa, và dốt nát; chúng ta phải loại bỏ hoàn toàn chủ nghĩa quốc gia, chủ nghĩa chủng tộc, và những nguyên nhân đó mà nuôi dưỡng thù địch. Chính chúng ta phải quan tâm trọn vẹn với vấn đề quan trọng chính yếu và không bị rối loạn với những vấn đề phụ thuộc.

Người hỏi: Ông đang gây thất vọng lắm, tôi tìm kiếm sự hứng khởi để tiếp tục. Ông không làm chúng tôi phấn chấn bằng những từ ngữ khuyến khích và hy vọng. Liệu có sai lầm khi tìm kiếm sự hứng khởi hay không?

Krishnamurti: Tại sao bạn muốn được hứng khởi? Đó không phải bởi vì trong chính bạn bạn bị trống rỗng, không sáng tạo, cô độc hay sao? Bạn muốn lấp đầy trạng thái cô độc này, sự hoang vắng dày vò này; đúng là bạn đã cố gắng những phương cách khác nhau để lấp đầy nó, và bạn hy vọng lại tẩu thoát khỏi nó bằng cách đến đây. Qui trình của lấp đầy trạng thái cô độc cằn cỗi này được gọi là sự hứng khởi. Vậy thì sự hứng khởi trở thành một kích thích thuần túy, và, như với mọi kích thích, chẳng mấy chốc nó mang lại sự vô cảm và chán nản riêng của nó. Vậy là chúng ta đi từ một hứng khởi, kích thích, đến một hứng khởi, kích thích khác, mỗi cái đều mang lại sự thất vọng lẫn chán nản riêng của nó; vì vậy cái trí mất đi tánh mềm dẻo của nó, tánh nhạy cảm của nó; khả năng bên trong của tánh căng bị mất đi qua sự tiến hành liên tục của kéo căng và buông lỏng này. Tánh căng là cốt lõi để khám phá, nhưng một kéo căng mà cần đến sự buông lỏng hay một kích thích chẳng mấy chốc mất đi khả năng của nó để tự làm mới mẻ, để có mềm dẻo, tỉnh táo. Tánh mềm dẻo tỉnh táo này không thể được kích thích từ bên ngoài; nó hiện diện khi nó không lệ thuộc vào sự kích thích, vào sự cảm hứng.

Tất cả sự kích thích đều không giống nhau trong thực tế hay sao? Dù bạn uống rượu hay bị kích thích bởi một bức tranh hay một ý tưởng, dù bạn đi nghe một buổi hòa nhạc hay dự một nghi lễ tôn giáo, hay kích thích mình qua một hành động, dù cao quý hay thấp hèn bao nhiêu, tất cả điều này không làm đờ đẫn quả tim-cái trí hay sao? Một tức giận chính đáng, mà là một vô lý, dù nó có lẽ gây kích thích và hứng khởi đến chừng nào, dẫn đến vô cảm; và hình thức tột đỉnh của thông minh, nhạy cảm, thâu nhận, không cần thiết để trải nghiệm sự thật hay sao? Kích thích nuôi dưỡng lệ thuộc, và lệ thuộc, dù xứng đáng hay không xứng đáng, gây ra sự sợ hãi. Người ta được kích thích hay hứng khởi như thế nào đều không quan trọng lắm, dù qua nhà thờ hay chính trị có tổ chức hay qua giải trí, bởi vì kết quả sẽ giống hệt – vô cảm bị gây ra qua sợ hãilệ thuộc.

Những xao lãng trở thành những kích thích. Từ cơ bản xã hội chúng ta khuyến khích xao lãng, xao lãng trong mọi hình thức. Chính cảm thấy-suy nghĩ của chúng ta đã trở thành một tiến hành của lang thang khỏi trọng tâm, khỏi thực tế. Vì vậy rời khỏi mọi xao lãng là điều khó khăn cực kỳ, bởi vì hầu như chúng ta đã trở thành không còn khả năng để tỉnh thức không chọn lựa được cái gì là. Thế là xung đột nảy sinh, mà làm xao lãng thêm nữa cảm thấy-tư tưởng của chúng ta, và chỉ qua trạng thái tỉnh thức liên tục thì cảm thấy-tư tưởng mới có thể thoát khỏi mạng lưới của những xao lãng.

Vả lại, ai có thể cho bạn sự phấn chấn, khuyến khích, và hy vọng? Nếu bạn lệ thuộc vào một người khác, dù vĩ đại và cao quý bao nhiêu, chúng ta hoàn toàn bị mất hút, bởi vì lệ thuộc nuôi dưỡng sự sở hữu, trong đó có đấu tranh và đau khổ vô tận. Sự phấn chấnhạnh phúc không là hai đầu khác biệt trong chính chúng; giống như khuyến khích và hy vọng, chúng là những việc có liên quan với nhau trong sự tìm kiếm cái gì đó mà là một kết thúc trong chính nó. Chính kết thúc này phải được tìm kiếm đầy nhẫn nại và siêng năng, và chỉ qua sự khám phá của nó những hỗn loạnđau khổ của chúng ta sẽ chấm dứt. Chuyến hành trình hướng đến sự khám phá của nó ở trong chính người ta; mọi chuyến hành trình khác là một xao lãng dẫn đến dốt nát và ảo tưởng. Chuyến hành trình bên trong chính người ta phải được thực hiện không vì một kết quả, không giải quyết xung độtđau khổ; bởi vì chính sự tìm kiếm là hiến dâng, hứng khởi. Lúc đó chính đang đi là một tiến hành đang phơi bày, một trải nghiệm mà liên tục đang giải thoátsáng tạo. Bạn không nhận thấy rằng sự hứng khởi hiện diện khi bạn không đang tìm kiếm nó hay sao? Nó hiện diện khi tất cả mong đợi đã chấm dứt, khi quả tim-cái trí là tĩnh lặng. Điều gì được tìm kiếm là tự-sáng chế và vậy là sự thật không hiện diện.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12833)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12758)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11802)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11786)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12401)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12453)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19900)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 12047)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 12070)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16947)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12733)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15150)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16200)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12951)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12312)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11973)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11977)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13221)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16567)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13290)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12572)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11906)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19925)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11229)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11323)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10460)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11155)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 11017)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10076)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11799)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
(Xem: 11689)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 12009)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11155)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11394)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12117)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12604)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10827)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 18046)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11762)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9998)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 11283)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 13232)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 16632)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 11916)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10977)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 11914)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 28867)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12430)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 53166)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35559)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 16118)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 12246)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12385)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 11462)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17259)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 15040)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 14663)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13921)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11782)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15109)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant