Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

16. Ojai, 13 tháng tư 1975

11 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 6764)
16. Ojai, 13 tháng tư 1975

KRISHNAMURTI
BÀN VỀ XUNG ĐỘT [ON CONFLICT]
Lời dịch: ÔNG KHÔNG – 2009

Ojai, 13 tháng tư 1975

Vấn đề là: hành động mà luôn luôn không được đặt nền tảng trên ký ức là gì? Bởi vì hành động được đặt nền tảng trên ký ức chắc chắn phải dẫn đến sự thoái hóa. Đó là câu hỏi của chúng ta. Bởi vì cái trí của con người đang thoái hóa, và một trong những nhân tố của sự thoái hóa đó là xung đột, sợ hãi, và sự theo đuổi vô tận của thoái hóa, tất cả đều được đặt nền tảng trên chuyển động của tư tưởng mà là một tiến hành thuộc vật chất. Liệu có một hành động mà không thoái hóa? Liệu có một hành động mà là trực nhận và hành động? Thực ra là đang trực nhận và đang hành động mà không có khoảng ngừng của thời gian.

Hãy cho phép tôi trình bày một cách khác. Sống là liên hệ. Nếu khôngliên hệ không có sống, đang sống. Tuy nhiên trong sự liên hệ của người ta có nhiều ký ức được tích lũy; giữa hai người có những tổn thương, những càu nhàu, những vui thú, những bực dọc, thống trị, và vân vân. Bạn biết điều gì xảy ra trong liên hệ. Tất cả nó được lưu trữ trong ký ức như một hình ảnh. Bạn có một hình ảnh về cô ấy, và cô ấy có một hình ảnh về bạn. Và hai hình ảnh này nói, “Chúng ta có liên hệ. Chúng ta thương yêu nhau”. Hãy thấy điều gì đang xảy ra: tình yêu bị giảm giá trị thành những hình ảnh mà bạn có về lẫn nhau. Những hình ảnh đó là những ký ức, và thế là bạn gọi tình yêu là một hồi tưởng của những sự việc quá khứ. Đó là một sự kiện: mà xảy ra trong sống hàng ngày. Bây giờ, liệu bạn có thể sống mà không có những hình ảnh này? Chỉ lúc đó mới có tình yêu. Trong sự liên hệ đó mà không có hình ảnh, có hành động từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc mà luôn luôn mới mẻ.

Bạn có liên hệ với người nào đó đầy thân mật, người vợ của bạn, người bạn gái của bạn, người bạn trai của bạn, hay bất kỳ người nào. Sống cùng nhau trong một ngày hay trong mười năm hay ba mươi năm, bạn đã tạo ra, sắp xếp vào chung một hình ảnh về cô ấy hay anh ấy. Đó là một sự kiện. Bạn có thể thấy nó trong sống riêng của bạn. Sự tích lũy đó của vô số những biến cố, những lăng nhục, những bực dọc, mất kiên nhẫn, tức giận, vui thú, thống trị đã trở thành một ký ức, một hình ảnh, và hình ảnh đó luôn luôn đang đáp lại. Ký ức đó luôn luôn đang đáp lại trong sự liên hệ. Bây giờ, liệu bạn có thể sống mà không dựng lên một hình ảnh nào cả? Vậy là lúc đó chỉ có liên hệ. Bây giờ, liệu bạn có thể thực hiện nó, không bao giờ tạo ra một hình ảnh, dù bất kỳ điều gì xảy ra? Đừng nói có hay không; bạn sẽ tìm ra. Nếu bạn nói, “Không, không thể được”, vậy thì chẳng còn vấn đề gì cả; bạn có thể tiếp tục trong con đường riêng của bạn. Nhưng nếu bạn muốn tìm ra, mà có nghĩa làm thế nào để sống khác hẳn, bạn phải đặt ra câu hỏi này, liệu bạn có thể sống mà không có bất kỳ hình ảnh nào. Bạn muốn tìm ra chứ? Tôi sẽ trình bày cho bạn, và chúng ta sẽ cùng nhau đi chung một chuyến hành trình. Tôi không là đạo sư của bạn, cám ơn Chúa, hay người giải thích hay người thầy của bạn – không là gì cả.

Bạn phải tìm ra chú ý là gì và không-chú ý là gì. Tôi có liên hệ với bạn, thân mật, gia đình, và tôi có một hình ảnh về bạn. Tại sao hình ảnh đó đã hiện diện? Hình ảnh hiện diện khi có chú ý à? Vì vậy tôi phải tìm ra chú ý là gì.

Chú ý là gì? Chú ý là tập trung hay sao? Tập trung là gì? Khi bạn tập trung, bạn loại trừ; bạn đang đặt toàn thân tâm của bạn vào một điểm nào đó khi bạn tập trung. Thế là bạn dựng lên một kháng cự quanh chính bạn, và trong kháng cự đó có xung đột, muốn và không muốn. Vậy là tôi phải tìm ra chú ý là gì. Nếu có chú ý, liệu sẽ có bất kỳ hình ảnh nào à? Bởi vì sự liên hệ có tầm quan trọng tột đỉnh trong sống. Nếu tôi có sự liên hệ đúng đắn với bạn, tôi có sự liên hệ đúng đắn với mọi thứ, với thiên nhiên, với người hàng xóm của tôi, với mọi thứ trong cuộc sống. Và bởi vì tôi không có sự liên hệ đúng đắn với bạn, mọi thứ đều chuyển biến sai trái. Vì vậy tôi phải tìm ra, khi có chú ý, liệu có một hình ảnh hay không? Hay chỉ có một hình ảnh khi có không-chú ý? Bạn hiểu rõ câu hỏi của tôi chứ? Bạn nói với tôi một điều gì đó thô bỉ bởi vì bạn là người vợ hay người chồng của tôi hay bất kỳ ai khác. Bởi vì tôi không đang chú ý, nó được ghi lại. Nhưng nếu tôi có chú ý trọn vẹn, tại ngay khoảnh khắc của sự lăng nhục, tôi có ghi lại không? Hãy tìm ra. Thâm nhập nó và thực hiện nó. Đó là, khi có chú ý, không có trung tâm. Khi bạn tập trung, có một trung tâm. Khi bạn đang chú ý trọn vẹn, không có cái tôi, không hình ảnh, không gì cả. Ví dụ, nếu lúc này bạn đang lắng nghe bằng chú ý trọn vẹn, nếu bạn như vậy, điều gì xảy ra? Không có đồng ý lẫn không đồng ý; có sự ân cần, sự hòa nhã, thương yêu, vậy là bạn đang lắng nghe trọn vẹn. Giống như vậy, khi trong sự liên hệ có một từ ngữ, một cử chỉ, một cái nhìn gây tổn thương, nếu tại ngay khoảnh khắc đó, có chú ý trọn vẹn, không có hình ảnh, không có gì để ghi lại. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12834)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12759)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11803)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11786)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12403)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12453)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19901)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 12047)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 12070)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16947)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12733)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15150)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16200)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12955)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12312)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11973)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11977)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13221)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16567)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13291)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12573)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11907)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19925)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11229)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11323)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10460)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11155)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 11018)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10077)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11801)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
(Xem: 11689)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 12013)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11157)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11396)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12118)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12604)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10827)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 18047)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11763)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 10000)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 11284)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 13233)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 16634)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 11917)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10978)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 11914)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 28868)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12430)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 53166)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35559)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 16118)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 12246)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12386)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 11468)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17263)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 15041)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 14665)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13921)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11784)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15110)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant