Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

20. Bombay, 23 tháng giêng 1983

11 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 6181)
20. Bombay, 23 tháng giêng 1983

KRISHNAMURTI
BÀN VỀ XUNG ĐỘT [ON CONFLICT]
Lời dịch: ÔNG KHÔNG – 2009

Bombay, 23 tháng giêng 1983

Chủ nghĩa bộ lạc được tôn vinh này mà được gọi là chủ nghĩa quốc gia đã tạo ra quá nhiều chiến tranh; và nơi nào có phân chia, không chỉ phân chia trong sự liên hệ giữa người đàn ông và người phụ nữ, nhưng còn cả những phân chia chủng tộc, tôn giáo, và ngôn ngữ, phải có xung đột. Chúng ta đã tìm hiểu câu hỏi: tại sao sự xung đột liên tục này tồn tại? Điều gì là gốc rễ của nó, nguyên nhân của tất cả sự hỗn loạn này, hầu như vô-trật tự, những chính phủ tồi tệ, những nhóm khác nhau đang trang bị vũ khí, mỗi quốc gia đang chuẩn bị cho chiến tranh, đang suy nghĩ một tôn giáo này cao quý hơn những tôn giáo khác? Chúng ta thấy sự phân chia này khắp thế giới, và theo lịch sử nó đã tồn tại được nhiều thế kỷ. Điều gì là nguyên nhân? Ai chịu trách nhiệm về nó? Chúng ta đã nói chính bởi tư tưởng đã phân chia con người chống lại con ngườitư tưởng, mà cũng đã tạo ra thi ca, hội họa, kiến trúc lạ thường, và toàn thế giới của công nghệ, y khoa, giải phẫu, truyền thông, máy vi tính, người máy, và vân vân. Tư tưởng đã mang lại sức khỏe tốt, y khoa hiện đại, vô vàn hình thức cho sự tiện nghi của con người.

 Nhưng tư tưởng cũng đã tạo ra sự phân chia rộng lớn này giữa con ngườicon người, và vì vậy chúng ta hỏi: đâu là nguyên nhân của tất cả điều này? Chúng ta đã nói nơi nào có một nguyên nhân, có một kết thúc cho nó; khi bạn có một căn bệnh nào đó, nguyên nhân có thể được tìm ra và căn bệnh được chữa trị. Nơi nào có một nguyên nhân, có một kết thúc cho nó. Chắc chắn đó là một sự thật. Và nếu tư tưởng đã tạo ra sự rối loạn này, sự bất ổn này, hiểm họa liên tục của chiến tranh này, nếu tư tưởng chịu trách nhiệm cho điều đó, vậy thì điều gì sẽ xảy ra nếu tư tưởng không được sử dụng trong cách này?

Chúng ta cũng nói rằng đây không là một giảng thuyết. Chúng ta đang cùng nhau tìm hiểu, suy xét cẩn thận để tìm ra tại sao con ngườidĩ nhiên có bao hàm phụ nữliên tục gây ra xung đột khắp thế giới không chỉ cho chính họ mà còn ở bên ngoài – trong xã hội, trong tôn giáo, trong kinh tế. Nếu tư tưởng chịu trách nhiệm, mà điều đó quá rõ ràng, cho sự hỗn loạn, sự phân chia, tất cả đau khổ của những con người, nếu người ta nhận ra điều đó như một sự kiện, không phải như một lý thuyết hay phát biểu thuộc triết lý, nhưng nếu người ta nhận ra sự kiện thực sự rằng dù tư tưởngthông thái, khôn ngoan, lanh lợi bao nhiêu, nó phải chịu trách nhiệm, vậy thì con người sẽ làm gì?

Chúng ta cũng đã nói rằng tư tưởng tạo ra những nhà thờ, những đền chùa, những thánh đường nguy nga, và mọi thứ được chứa đựng trong đó là sự sáng chế của tư tưởng. Tư tưởng đã tạo ra Thượng đế. Bởi vì tư tưởng phát hiện sự bất ổn, mất an toàn, xung đột trong thế giới này, tư tưởng tìm kiếm, sáng chế một thực thể, một nguồn gốc, một lý tưởng mà cho sự an toàn, an ủi, nhưng an toànan ủi đó là sự sáng chế riêng của nó. Tôi nghĩ điều đó quá rõ ràng, nếu bạn quan sát suy nghĩ riêng của bạn, rằng tư tưởng, dù tinh tế hay ngu dốt, ranh mãnh, xảo quyệt, đã tạo ra sự phân chiaxung đột này. Vậy thì chúng ta có thể hỏi, tại sao xung đột này lại tồn tại? Tại sao từ thời thượng cổ đến nay chúng ta đã sống cùng xung đột này giữa tốt lànhxấu xa, “cái gì là” và “cái gì nên là”, cái thực tế và cái lý tưởng?

Chúng ta hãy tìm hiểu không chỉ tại sao có xung đột mà còn cả tại sao có sự phân chia như tốt lànhxấu xa, như quỉ dữ và điều được gọi là đẹp đẽ, thánh thiện. Làm ơn chúng ta đang cùng nhau suy nghĩ, không đang đồng ý, không đang chấp nhận, nhưng đang quan sát tình trạng của thế giới, xã hội trong đó bạn sống, những chính phủ, tình hình kinh tế riêng của bạn, và vô số những đạo sư, khi bạn đã quan sát tất cả điều này một cách khách quan, hợp lý, thông minh, tại sao con người sống trong xung đột? Xung đột là gì? Nếu tôi được phép nhắc nhở bạn – tôi sẽ lặp lại liên tụcchúng ta đang có một nói chuyện cùng nhau. Bạn và người nói đang có một bàn luận, không chỉ đang lắng nghe những ý tưởng, những khái niệm, hay những từ ngữ nào đó, nhưng bạn đang chia sẻ. Bạn có thể chia sẻ, tham gia, nếu bạn thực sự quan tâm.

Nếu chúng ta chỉ đối đãi điều gì đang được trình bày như một chuỗi của những ý tưởng, những kết luận, những phỏng đoán, vậy thì nói chuyện của chúng ta chấm dứt; không có sự hiệp thông giữa bạn và người nói. Nhưng có hiệp thông nếu bạn quan tâm, nhận thức rõ ràng tất cả những sự việc đang xảy ra trong thế giới – sự chuyên chế, sự tìm kiếm quyền lực, chấp nhận quyền lực, sống cùng quyền lực. Tất cả quyền lực đều tội lỗi, xấu xa, dù là quyền lực của người chồng trên người vợ hay người vợ trên người chồng, hay quyền lực của những chính phủ khắp thế giới. Nơi nào có quyền lực, nó mang theo cùng tất cả những sự việc xấu xa.

 Vậy là chúng ta đang hỏi tại sao con người sống trong xung đột. Không những giữa hai con người, người đàn ông và người phụ nữ, mà còn cả một cộng đồng chống lại một cộng đồng, một nhóm chống lại một nhóm khác. Bản chất của xung đột là gì? Chúng ta đang nói về những sự việc rất nghiêm túc, không phải triết lý, nhưng đang tìm hiểu sống mà chúng ta trải qua ngày sang ngày, năm sang năm đến khi chúng ta chết. Tại sao những con người sống cùng xung đột. Một số người trong các bạn có lẽ đã trông thấy những hang động đó ở miền nam nước Pháp từ cách đây hai mươi lăm năm, ba mươi ngàn năm; có một hình ảnh của một con người đang chống lại tội lỗi trong hình dạng của một con bò mộng. Trong hàng ngàn năm chúng ta đã sống cùng xung đột. Tham thiền trở thành một xung đột. Mọi thứ chúng ta làm hay không làm đã trở thành một xung đột.

 Xung đột hiện diện nơi nào có so sánh phải không? So sánh có nghĩa đo lường; người ta so sánh chính mình với một người khác mà sáng láng, thông minh, một người có vị trí, quyền hành và vân vân. Nơi nào có so sánh, phải có sợ hãi, phải có xung đột. Vì vậy liệu người ta có thể sống không có so sánh? Chúng ta nghĩ qua so sánh mình với người nào đó chúng ta đang tiến bộ. Bạn muốn giống như vị đạo sư của bạn hay giỏi hơn vị đạo sư của bạn, vượt qua ông ấy. Bạn muốn đạt được sự khai sáng, địa vị xã hội; bạn muốn có nhiều người theo sau; bạn muốn được kính trọng. Nơi nào có một trở thành thuộc tâm lý, phải có xung đột. Chúng ta đang cùng nhau suy nghĩ về điều này chứ? Liệu có thể sống một cuộc sống, một cuộc sống hiện đại, mà không có bất kỳ so sánhvì vậy không có bất kỳ xung đột. Chúng ta đang tìm hiểu sự trở thành thuộc tâm lý. Một đứa trẻ trở thành một thanh niên, sau đó lớn lên thành một người trưởng thành. Muốn học một ngoại ngữ, chúng ta cần thời gian; muốn có được bất kỳ kỹ năng nào, chúng ta cần thời gian. Và chúng ta đang hỏi: sự trở thành thuộc tâm lý là một trong những lý do của xung đột? Tôi muốn “cái gì là” được thay đổi thành “cái gì nên là”. Tôi không tốt lành, nhưng tôi sẽ tốt lành. Tôi tham lam, ganh tị, nhưng có lẽ ngày nào đó tôi sẽ được tự do khỏi tất cả điều đó.

 Ham muốn để trở thành, mà là đo lường, so sánh, đó là một trong những nguyên nhân của xung đột? Có một lý do khác? Có sự phân hai? Đây không là triết lý. Chúng ta đang suy xét điều gì đó để hiểu rõ bản chất của xung đột và tự tìm ra cho chính chúng ta liệu có thể được tự do hoàn toàn khỏi xung đột. Xung đột vắt kiệt bộ não, làm cái trí cũ kỹ. Một con người sống không xung đột là một con người lạ thường. Năng lượng vô hạn đang bị lãng phí trong xung đột. Vậy là rất quan trọng, nếu người ta được phép vạch rõ, rất cần thiết, phải hiểu rõ xung đột. Lúc này chúng ta đã thấy rằng sự đo lường, sự so sánh, tạo ra xung đột.

Cũng vậy, chúng ta đã nói rằng có sự phân hai. Vài triết gia của bạn đã thừa nhận điều đó và đã nói rằng đây là một trong những lý do của xung đột. Có sự phân hai – đêm và ngày, sáng và tối, cao và lùn, rực rỡtối tăm, mặt trời mọc và mặt trời lặn. Thuộc vật lý có sự phân hai. Bạn là một người phụ nữ, và anh ấy là một người đàn ông. Làm ơn đừng chấp nhận điều gì người nói trình bày, hãy suy nghĩ cùng ông ta, bởi vì nhờ vậy chúng ta có thể cùng nhau đồng-hợp tác. Điều đó có nghĩa bạn phải gạt đi những quan điểm, những kết luận, và những trải nghiệm của bạn, bởi vì nếu bạn bám vào chúng và một người khác cũng bám vào những điều của anh ấy, vậy thì không có đồng-hợp tác, không có cùng nhau suy nghĩ. Có sự phân chia, có sự xung đột. Vì vậy tôi nài nỉ bạn, chúng ta hãy cùng nhau suy nghĩ, bởi vì điều này rất nghiêm túc. Liệu có sự phân hai thuộc tâm lý? Hay chỉ có “cái gì là”? Tôi là bạo lực. Đó là trạng thái duy nhất – bạo lực – không phải không-bạo lực. Không-bạo lực chỉ là một ý tưởng; nó không là một sự kiện. Vì vậy nơi nào có bạo lực và không-bạo lực, phải có xung đột. Trong quốc gia này các bạn đã nói liên tục về không-bạo lực, nhưng có thể các bạn cũng là những con người đầy bạo lực. Vậy là sự kiện và không-sự kiện: sự kiện là những con người khắp thế giới đều bạo lực.. Đó là một sự kiện. Bạo lực có nghĩa không chỉ bạo lực thân thể mà còn cả bắt chước, tuân phục, vâng lời, chấp nhận.

 Sự kiện là “cái gì là”; không-sự kiện không phải. Nhưng nếu bạn bị quy định vào không-sự kiện, đó là, trong khi bạo lực, bạn theo đuổi không-bạo lực, bạn chuyển động khỏi sự kiện, và thế là bạn phải có xung đột. Bởi vì trong khi tôi đang tìm kiếm không-bạo lực, tôi đang là bạo lực, tôi đang gieo những hạt giống của bạo lực. Chỉ có một sự kiện, đó là tôi là bạo lực. Vậy là trong sự hiểu rõ bản chất và cấu trúc của bạo lực có lẽ có sự kết thúc của bạo lực.

 Vậy là chỉ có sự kiện, không cái đối nghịch. Điều này rất rõ ràng – rằng lý tưởng, nguyên tắc đạo đức, mà chúng ta gọi là những điều cao quý, tất cả đều là ảo tưởng. Điều gì là sự kiện là rằng chúng ta là bạo lực, đê tiện, thoái hóa, rối loạn, và vân vân. Đó là những sự kiện, và chúng ta phải giải quyết những sự kiện. Những sự kiện, nếu bạn đối diện chúng, không tạo ra những vấn đề; đó là nó là như vậy. Vậy là tôi phát giác rằng tôi là bạo lực, và tôi không có sự đối nghịch với nó; tôi phủ nhận hoàn toàn sự đối nghịch vì hiểu rõ nó là vô lý.Tôi chỉ có sự kiện này. Tôi quan sát sự kiện như thế nào? Động cơ của tôi trong quan sát nó là gì? Phương hướng mà tôi muốn sự kiện chuyển động trong đó là gì? Tôi phải ý thức được bản chất và cấu trúc của sự kiện, tỉnh thức được nó mà không chọn lựa. Bạn đang làm điều này khi chúng ta đang nói chuyện chứ? Hay bạn chỉ đang vui vẻ lắng nghe nhiều từ ngữ và đang chọn lựa đó đây vài điều mà dường như thuận tiệnphù hợp và không đang lắng nghe trọn vẹn sự tìm hiểu riêng của bạn?

Người ta giải quyết sự kiện như thế nào? Tôi quan sát sự kiện tôi là bạo lực như thế nào? Bạo lực đó phơi bày khi tôi tức giận, ghen tuông, khi tôi cố gắng so sánh mình với một người khác. Nếu tôi đang làm tất cả điều đó, vậy thì không thể đối diện sự kiện. Một cái trí tốt lành đối diện sự kiện. Nếu bạn đang kinh doanh, bạn đối diện những sự kiệngiải quyết chúng; bạn không giả vờ rằng bạn sẽ kiếm được cái gì đó bằng cách chuyển động khỏi chúng. Như thế bạn không là người kinh doanh giỏi. Nhưng ở đây chúng ta rất vô tích sự, chúng ta không thay đổi, bởi vì chúng ta không giải quyết những sự kiện. Thuộc tâm lý, bên trong, chúng ta lẩn tránh chúng. Chúng ta tẩu thoát khỏi chúng, hay, khi chúng ta có phát hiện chúng, chúng ta đè nén chúng. Vậy là không có sự giải quyết bất kỳ vấn đề nào của chúng.

Từ đó chúng ta có thể chuyển đến điều gì khác nữa, mà rất quan trọng. Một cái trí tốt lành là gì? Bạn có khi nào đã hỏi điều đó? Một cái trí là tốt lành khi nó nhét đầy hiểu biết? Và hiểu biết là gì? Tất cả chúng ta đều rất tự hào khi có hiểu biết, hiểu biết học đường, qua trải nghiệm, những biến cố, những tình cờ. Hiểu biết là ký ức được tích lũy, trải nghiệm được tích lũy, và trải nghiệm không bao giờ có thể được trọn vẹn. Vì vậy một cái trí tốt lành được nhét đầy hiểu biết? Một cái trí tốt lành là một cái trí tổng thể, toàn diện? Hay một cái trí tốt lành là một cái trí truyền thống, quốc gia, hẹp hòi, cục bộ? Chắc chắn, đó không là một cái trí tốt lành. Một cái trí tốt lành là một cái trí tự do. Nó không là một cái trí hiện đại. Một cái trí tốt lành không thuộc về một thời kỳ, không liên quan đến môi trường sống. Nó có thể giao du với môi trường sống, giao du với thời gian. Nhưng trong chính nó nó hoàn toàn tự do. Và một cái trí như thế không có sợ hãi. Người nói đang trình bày điều này bởi vì những cái trí của chúng ta đã rất được giáo dục, rất được rèn luyện đến nỗi chúng ta không còn gì là khởi nguồn. Không có chiều sâu; hiểu biết luôn luôn hời hợt.

 Chúng ta quan tâm đến sự hiểu rõ con người, cái trí, hành động, cách cư xử, những phản ứng của anh ấy, mà bị giới hạn bởi vì những giác quan của anh ấy bị giới hạn. Muốn hiểu rõ chiều sâu, bản chất của xung đột và liệu có thể được tự do hoàn toàn khỏi nó, người ta phải có một cái trí tốt lành, không chỉ là một tích lũy của những từ ngữ. Điều này không có nghĩa một cái trí lanh lợi, một cái trí mánh khóe, mà hầu hết chúng ta đều có. Chúng ta có những cái trí rất mánh khóe nhưng không có những cái trí tốt lành. Chúng ta rất xảo quyệt, khôn lanh, lừa dối, gian manh, nhưng đó không là những phẩm chất của một cái trí tốt lành. Vậy là liệu chúng ta, đang sống trong thế giới hiện đại này, có thể có một cái trí tốt lành, với tất cả những hoạt động, những áp lực, những ảnh hưởng, và báo chí và sự lặp lại liên tục – những cái trí của chúng ta đang bị lập trình giống như một cái máy vi tính – nếu bạn đã bị lập trình như một người Ấn độ giáo trong ba ngàn năm vừa qua, bạn sống lặp lại. Sự lặp lại như thế không là sự biểu hiện của một cái trí tốt lành – mà mãnh liệt, lành mạnh, năng động, dứt khoát, đầy sự tỉnh táo đam mê. Một cái trí như thế là cần thiết. Chỉ đến lúc đó mới có thể tạo ra một cách mạng tâm lý và vậy là một xã hội mới mẻ, một văn hóa mới mẻ.

Nghệ thuật của lắng nghe là lắng nghe, thấy sự thật, và hành động. Với chúng ta, chúng ta thấy cái gì đó, chúng ta hiểu rõ nó theo lý lẽ, lý luận, nhưng chúng ta không hành động. Có một khoảng ngừng giữa nhận biết và hành động. Giữa nhận biết và hành động nhiều biến cố khác xảy ra; vì vậy bạn sẽ không bao giờ hành động. Nếu bạn thấy bạo lực trong chính bạn như một sự kiện và không cố gắng để trở thành không-bạo lực, mà là không-sự kiện, bạn sẽ thấy bản chất, sự phức tạp của không-bạo lực; và bạn có thể thấy nó nếu bạn lắng nghe bạo lực riêng của bạn, nó sẽ phơi bày bản chất của nó. Bạn có thể tự biết nó. Khi bạn trực nhận bạo lực của bạn và hành động, vậy thì bạo lực hoàn toàn kết thúc. Trái lại nhận biết với một khoảng ngừng trước hành động là xung đột.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12834)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12760)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11803)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11787)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12404)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12454)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19902)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 12047)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 12070)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16949)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12733)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15150)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16204)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12957)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12312)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11973)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11978)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13224)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16570)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13294)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12574)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11909)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19925)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11231)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11323)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10460)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11155)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 11026)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10077)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11805)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
(Xem: 11690)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 12017)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11158)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11398)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12120)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12604)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10827)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 18048)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11764)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 10000)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 11284)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 13241)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 16636)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 11919)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10982)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 11914)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 28870)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12431)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 53168)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35559)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 16118)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 12246)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12386)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 11469)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17263)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 15041)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 14665)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13922)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11784)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15111)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant