Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

11. Madras, 22 tháng mười hai 1965

11 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 6838)
11. Madras, 22 tháng mười hai 1965

KRISHNAMURTI
BÀN VỀ XUNG ĐỘT [ON CONFLICT]
Lời dịch: ÔNG KHÔNG – 2009

Madras, 22 tháng mười hai 1965

Liệu có thể chấm dứt xung đột trong tất cả những liên hệ của chúng ta – ở nhà, trong văn phòng, trong mọi lãnh vực thuộc sống của chúng ta? Điều này không có nghĩa chúng ta rút lui trong cô lập, trở thành một thầy tu, hay rút vào ngõ nghách nào đó của tưởng tượng và ưa thích riêng của chúng ta; nó có nghĩa sống trong thế giới này để hiểu rõ xung đột. Chừng nào còn có xung đôt thuộc bất kỳ loại nào, những cái trí, những quả tim, những bộ não của bạn không thể vận hành đến khả năng tột đỉnh của nó. Chúng có thể làm như thế chỉ khi nào không có xung đột, khi có rõ ràng. Điều này chỉ có thể được khi tổng thể của cái trí – các cơ quan thân thể, những tế bào não, toàn sự việc được gọi là cái trí – ở trong một trạng thái của không-xung đột. Chỉ lúc đó hòa bình mới có thể hiện diện.

Muốn hiểu rõ trạng thái đó, chúng ta phải hiểu rõ những xung đột mỗi lúc một chồng chất, trận chiến hàng ngày trong chúng ta và với người hàng xóm, trong văn phòng, gia đình, giữa người đàn ông và người đàn ông, người đàn ông và người phụ nữ, và cấu trúc tâm lý của xung đột này, cái “tôi” của xung đột. Hiểu rõ, giống như thấy và lắng nghe, là một trong những sự việc khó khăn nhất. Khi bạn nói, “Tôi hiểu rõ điều gì đó”, bạn thực sự có nghĩa không chỉ bạn hoàn toàn đã nắm bắt được toàn ý nghĩa của điều gì đang được nói mà còn cả ngay hiểu rõ tự nó là hành động. Bạn không thể hiểu rõ nếu bạn chỉ thuộc trí năng, từ ngữ, đang nhận thức điều gì đang được nói; nếu bạn chỉ lắng nghe thuộc trí năng – đó là, thuộc từ ngữchắc chắn đó không là hiểu rõ. Hay nếu bạn chỉ cảm thấy cái gì đó đầy cảm giác, cảm tính, điều đó cũng không là hiểu rõ. Bạn hiểu rõ chỉ khi nào toàn thân tâm của bạn thấu triệt – đó là, khi bạn không quan sát bất kỳ cái gì một cách phân chia, hoặc chỉ bằng trí năng hoặc cảm giác, nhưng quan sát một cách tổng thể.

Vậy là hiểu rõ bản chất của xung đột đòi hỏi không những hiểu rõ xung đột riêng của bạn nhưng còn cả hiểu rõ xung đột của con người như một tổng thể – mà gồm có chủ nghĩa quốc gia, sự khác biệt giai cấp, tham vọng, tham lam, ganh ghét, ham muốn vị trí, thanh danh, toàn ý thức của uy quyền, thống trị, sợ hãi, tội lỗi, lo âu, mà bao gồm chết, tham thiền – tổng thể của sống. Muốn hiểu rõ điều đó, người ta phải thấy, lắng nghe, không phân chia, nhưng nhìn cái bản đồ bao la của sống. Một trong những khó khăn của chúng tachúng ta vận hành phân chia, chúng ta vận hành từng phần – như một kỹ sư, một họa sĩ, một người khoa học, một người kinh doanh, một luật sư, một người vật lý, và vân vân; và mỗi mảnh đang xung đột với một mảnh khác, khinh miệt nó hay cảm thấy cao quý hơn.

Vậy thì câu hỏi là: làm thế nào quan sát một cách không phân chia tổng thể của sống? Khi chúng ta quan sát tổng thể của sống – không như một người Ấn độ giáo, một người Hồi giáo, một người Thiên chúa giáo, một người cộng sản, một người xã hội, một giáo sư, hay một người sùng đạo – khi chúng ta thấy chuyển động lạ thường của sống, mà gồm có mọi thứ, chết, đau khổ, phiền muộn, hỗn loạn, sự thiếu vắng hoàn toàn của tình yêu và hình ảnh của vui thú mà chúng ta đã tự nuôi dưỡng cho chính mình qua hàng thế kỷ, mà sai khiến những giá trị của chúng ta, những hoạt động của chúng ta – khi chúng ta thấy sự việc bao la này, một cách tổng thể, vậy thì phản ứng của chúng ta đến tổng thể đó sẽ hoàn toàn khác hẳn. Chính là phản ứng này, khi chúng ta thấy một cách tổng thể toàn chuyển động của sống, điều đó sẽ mang lại một cách mạng trong chính chúng ta, và cách mạng này tuyệt đối cần thiết. Những con người không thể tiếp tục như họ đã là, tàn sát lẫn nhau, căm thù lẫn nhau, phân chia mỗi người thành những quốc gia, thành tất cả những hoạt động cá thể, nông cạn, nhỏ nhen, bởi vì phương cách đó có sẵn phiền muộn nhiều hơn, hỗn loạn nhiều hơn, và đau khổ nhiều hơn.

Vậy là liệu có thể thấy tổng thể của sống, mà giống như một con sông đang chuyển động liên tục, không ngừng nghỉ, cùng vẻ đẹp vô cùng, đang chuyển động bởi vì nó có một khối lượng nước vô hạn ở đằng sau? Liệu chúng ta có thể thấy sống này một cách tổng thể?

Chỉ khi nào chúng ta thấy cái gì đó một cách tổng thể chúng ta mới có thể hiểu rõ nó, và chúng ta không thể thấy nó một cách tổng thể nếu có hoạt động tự cho mình là trung tâm mà hướng dẫn, định hình hành động của chúng ta và những suy nghĩ của chúng ta. Chính hành động tự cho mình là trung tâm này mà đồng hóa với gia đình, quốc gia, những kết luận thuộc học thuyết, với những đảng phái – dù thuộc chính trị hay tôn giáo. Chính trung tâm này mà khẳng định nó đang tìm kiếm Thượng đế, sự thật, và mọi chuyện như thế và điều đó ngăn cản sự hiểu rõ tổng thể của sống. Muốn hiểu rõ trung tâm này, nó thực sự là gì, cần một cái trí không bị chất đầy bởi những khái niệm, những kết luận. Tôi phải biết một cách thực sự, không phải một cách lý thuyết, tôi là gì. Điều gì tôi suy nghĩ, điều gì tôi cảm thấy, những tham vọng, những tham lam, những ganh ghét của tôi, ham muốn thành công, nổi tiếng, thanh danh, thèm khát của tôi, những phiền muộn của tôi – tất cả điều đó là tôi là gì. Tôi có lẽ nghĩ rằng tôi là Thượng đế, tôi là cái gì khác; nhưng điều đó vẫn còn là thành phần của tư tưởng, thành phần của cái hình ảnh tự chiếu rọi chính nó qua tư tưởng. Vì vậy nếu bạn không hiểu rõ điều này không phụ thuộc vào Shankara, Buddha hay, bất kỳ ai, nếu bạn không thực sự thấy bạn là gì hàng ngày – cách bạn nói chuyện, cách bạn cảm thấy, cách bạn phản ứng, không những ở tầng ý thức bên ngoài mà còn cả bên trong – nếu bạn không đặt nền tảng ở đó, làm thế nào bạn có thể tiến rất xa được? Dù bạn có lẽ tiến xa thế nào, nó sẽ chỉ là sự tưởng tượng, sự ưa thích nhất thời, lừa dối, và bạn sẽ là một người đạo đức giả.

Bạn phải đặt nền tảng này – mà là hiểu rõ bạn là gì. Bạn có thể làm điều đó chỉ bằng cách quan sát chính bạn, không cố gắng sửa đổi nó, không cố gắng định hình nó, không cố gắng nói điều này đúng hay điều này sai, nhưng bằng cách thấy điều gì đang thực sự xảy ra – mà không có nghĩa bạn trở thành tự cho mình là trung tâm nhiều hơn. Trái lại, bạn trở thành tự cho mình là trung tâm nếu bạn chỉ đang sửa chữa điều gì bạn thấy, diễn giải điều gì bạn thấy tùy theo những ưa thích và không ưa thích của bạn, nhưng nếu bạn chỉ quan sát, không có sự củng cố thêm của trung tâm.

Muốn thấy tổng thể của sống cần đến sự thương yêu vô cùng. Bạn biết, chúng ta đã trở nên nhẫn tâm, và bạn có thể thấy tại sao. Trong một quốc gia dư thừa dân số – một quốc gia nghèo khó, cả bên trong lẫn bên ngoài, một quốc gia đã sống trên những ý tưởng và không phải thực tế, một quốc gia đã tôn thờ quá khứ, với uy quyền được bám rễ trong quá khứ – theo tự nhiên người ta dửng dưng với điều gì đang thực sự xảy ra. Nếu các bạn tự quan sát mình, các bạn sẽ thấy các bạn chẳng có thương yêu bao nhiêu, thuơng yêu là ân cần. Thương yêunghĩa ý thức của vẻ đẹp, không chỉ là sự ngưỡng mộ phía bên ngoài. Ý thức của vẻ đẹp có thể hiện diện chỉ khi nào có hòa nhã vô cùng, ân cần, chăm sóc vô cùng mà là chính bản thể của thương yêu. Khi điều đó khô cạn, những tâm hồn của chúng ta cằn cỗi, và chúng ta lấp đầy chúng bằng những từ ngữ, những ý tưởng, những trích dẫn, với điều gì đã được nói; và khi chúng ta ý thức được sự hỗn loạn này, chúng ta cố gắng làm sống lại quá khứ, chúng ta tôn thờ truyền thống, chúng ta quay lại. Bởi vì chúng ta không biết làm thế nào để giải quyết sự tồn tại hiện nay với tất cả những hỗn loạn của nó, chúng ta nói, “Chúng ta hãy quay lại; chúng ta hãy trở lại quá khứ; chúng ta hãy sống phụ thuộc vào sự việc chết rồi nào đó”. Đó là lý do tại sao, khi bị đối diện với hiện tại, bạn tẩu thoát vào quá khứ hay học thuyết hay điều không tưởng nào đó, và, bởi vì tâm hồn bạn bị trống rỗng, bạn nhét đầy nó bằng những từ ngữ, những hình ảnh, những công thức, và những khẩu hiệu Hãy tự quan sát chính bạn, và bạn sẽ thấy tất cả điều này. 

Vậy là muốn mang lại một cách tự nhiên, tự do, sự thay đổi tổng thể này trong chính cái trí đòi hỏi sự chú ý nghiêm túc, vô cùng. Chúng ta không muốn chú ý, bởi vì chúng ta sợ hãi điều gì có lẽ xảy ra nếu chúng ta thực sự suy nghĩ những sự kiện hàng ngày, thực tế thuộc sống của chúng ta. Chúng ta thực sự sợ hãi tìm hiểu; chúng ta thích sống mù lòa, nghẹt thở, đau khổ, bất hạnh, vô giá trị, và thế là những sống không ý nghĩa và trống rỗng; và, bởi vì sống không ý nghĩa, chúng ta cố gắng sáng chế ý nghĩa trong sống. Sống không có ý nghĩa. Sống có nghĩa là được sống, và trong ngay đang sống đó người ta bắt đầu khám phá thực tế, sự thật, vẻ đẹp của sống. Muốn khám phá sự thật, vẻ đẹp của sống, bạn phải hiểu rõ toàn chuyển động của nó, và để làm điều đó bạn phải kết thúc tất cả sự suy nghĩcách sống mảnh vỡ này. Bạn phải kết thúc là một người Ấn độ giáo, không chỉ trong cái tên nhưng bên trong; bạn phải kết thúc là một người Hồi giáo hay một người Phật giáo hay một người Thiên chúa giáo cùng tất cả những giáo điều của nó, bởi vì những sự việc này đang phân chia con người, đang phân chia những cái trí riêng của các bạn, những tâm hồn riêng của các bạn.

Kỳ lạ thay, bạn sẽ lắng nghe tất cả điều này, bạn sẽ lắng nghe trong một tiếng đồng hồ, và bạn sẽ về nhà và lặp lại khuôn mẫu. Bạn sẽ mãi mãi lặp lại khuôn mẫu, và khuôn mẫu này từ căn bản được đặt nền tảng trên vui thú.

Vậy là bạn phải tự nguyện tìm hiểu sống riêng của bạn, không phải bởi vì chính phủ gây ảnh hưởng bạn hay người nào đó bảo bạn làm. Bạn phải tự nguyện tìm hiểu nó, không chỉ trích nó, không nói đây là đúng hay đây là sai nhưng quan sát. Khi bạn có quan sát theo cách đó, bạn sẽ phát giác rằng bạn quan sát bằng đôi mắt đầy thương yêu – không phải bằng chỉ trích, không phải bằng nhận xét, nhưng bằng ân cần. Bạn tự quan sát bằng ân cầnvì vậy bằng trìu mến vô hạn – và chỉ khi nào có tình yêu và trìu mến vô hạn bạn mới thấy sự tồn tại tổng thể của sống. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12833)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12757)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11802)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11783)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12400)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12452)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19896)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 12047)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 12070)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16947)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12732)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15150)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16197)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12947)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12311)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11972)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11975)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13218)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16566)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13288)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12570)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11906)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19924)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11229)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11322)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10458)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11154)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 11017)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10075)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11798)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
(Xem: 11689)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 12007)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11149)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11394)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12116)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12603)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10824)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 18044)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11759)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9995)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 11283)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 13232)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 16628)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 11914)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10974)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 11912)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 28867)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12428)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 53162)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35558)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 16118)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 12245)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12384)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 11460)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17258)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 15037)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 14659)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13920)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11776)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15106)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant