Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

12. Rome, 31 tháng ba 1966

11 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 6612)
12. Rome, 31 tháng ba 1966

KRISHNAMURTI
BÀN VỀ XUNG ĐỘT [ON CONFLICT]
Lời dịch: ÔNG KHÔNG – 2009

Rome, 31 tháng ba 1966

Liệu có thể tìm ra một cách sống hàng ngày mà được tự do ngay tại cơ bản và tuyệt đốivì vậy cách mạng? Với tôi chỉ có một cách mạng, và đó là cách mạng tôn giáo. Những cách mạng khác – kinh tế, xã hội, chính trị – không là cách mạng. Cách mạng duy nhất là cái trí tôn giáo đã trong tình trạng nổi loạn, không phải như một phản ứng, nhưng một cái trí đã thiết lập một cách sống trong đó không có mâu thuẫn. Tất cả sống của chúng ta đều trong mâu thuẫnvì vậy xung đột, hoặc xung đột được sinh ra từ cố gắng để tuân phục, xung đột qua tìm kiếm sự thành tựu, hoặc xung đột được gây ra bởi ảnh hưởng xã hội. Những con người đã sống trong tình trạng của xung đột này suốt toàn lịch sử đã biết được.

Mọi thứ họ tiếp xúc họ biến thành xung đột, bên trong và bên ngoài. Hoặc nó là một chiến tranh giữa những con người, hoặc sống như một con người hiện nay là một trận chiến bên trong. Tất cả chúng ta đều biết sự đấu tranh liên tục, bất tận này, bên ngoài và bên trong. Xung đột có sản sinh một kết quả nào đó bằng cách sử dụng ý chí, nhưng nó không bao giờ là sáng tạo. Muốn sống, nở hoa trong tốt lành, phải có hòa bình, không phải hòa bình thuộc kinh tế, hòa bình giữa hai chiến tranh, hòa bình của những người chính trị đang thương thuyết những hiệp định, hòa bình mà những nhà thờ nói hay sự giảng đạo của tôn giáo có tổ chức, nhưng hòa bình mà người ta đã tự khám phá cho chính mình. Chỉ trong hòa bình người ta mới có thể nở hoa, tăng trưởng, là, và vận hành. Nó không thể hiện diện khi có bất kỳ loại xung đột nào, dù có ý thức hay không ý thức.

Liệu có thể sống một cuộc sống không xung đột trong thế giới hiện đại, với tất cả những áp lực, đấu tranh, căng thẳng, và những ảnh hưởng trong cấu trúc xã hội? Đó là đang sống thực sự, bản thể của một cái trí đang tìm hiểu một cách nghiêm túc. Vấn đề liệu có Thượng đế, liệu có sự thật, liệu có vẻ đẹp chỉ có thể hiện diện khi điều này được thiết lập, khi cái trí không còn trong xung đột.

Người hỏi: Làm thế nào người ta có thể tránh xung đột này? 

Krishnamurti: Bạn không thể tránh xung đột. Bạn phải hiểu rõ bản chất của nó. Xung đột là một trong những sự việc khó khăn nhất để hiểu rõ. Chúng ta đã cố gắng tránh xung đột, vì vậy chúng ta nương nhờ nhậu nhẹt, tình dục, nhà thờ, tôn giáo có tổ chức, những hoạt động xã hội, vui chơi hời hợt – mọi hình thức của tẩu thoát. Chúng ta đã cố gắng tránh xung đột, nhưng chúng ta đã không thể. Chính sự lẩn tránh xung đột là góp phần vào xung đột.

Người hỏi: Ông có thể trình bày điều gì đó về bản chất của xung đột?

Krishnamurti: Chúng ta sẽ tìm hiểu điều đó. Trước hết chúng ta hãy thấy sự cần thiết cơ bản, chủ yếu của tự do và hòa bình. Chúng ta vẫn chưa biết nó có nghĩa gì. Chúng ta có thể thấy, có lẽ thuộc trí năng, sự cần thiết của một cái trí, một 
tâm hồn, toàn cấu trúc của một con người không có xung đột, bởi vì lúc đó có hòa bình. Hòa bình đó thực sự là một hình thức của cư xử đạo đức, bởi vì một cái trí không hòa bình không thể cư xử, không thể có sự liên hệ đúng đắn; và sự liên hệ đúng đắncách cư xử, đạo đức, những luân lý, mọi chuyện của nó.

Nếu cả hai chúng ta hiểu rõ sự cần thiết của kết thúc xung độthiểu rõ nó thậm chí bằng từ ngữ, trong khoảnh khắc – vậy thì chúng ta có thể tiến tới; vậy thì chúng ta có thể bắt đầu tìm hiểu xung đột là gì, tại sao nó hiện diện, và liệu có thể kết thúc nó bằng cách đòi hỏi một nhân tố được gọi là ý chí. Chúng ta hãy bắt đầu chầm chậm. Nó là một chủ đề quan trọng; chúng ta không thể trình bày xong trong một buổi chiều. Xung đột là gì, cả bên trong lẫn bên ngoài? Ở bên ngoài chúng ta có thể thấy chiến tranh là kết quả của những quốc tịch, những áp lực kinh tế, những thành kiến cá thểtôn giáo. Đã có những chiến tranh tôn giáo suốt lịch sử của thế giới. Có lẽ Phật giáo đã không góp phần vào chiến tranh, mặc dù mới đây những thầy tu Phật giáo đã tự thiêu, nhưng điều đó hoàn toàn ngược lại giáo lý. Họ được dạy bảo không bao giờ xen vào chính trị, nhưng chính trị là uy quyền mới; nó cung cấp sự nhiễm độc của chủ nghĩa quốc gia. Vậy thì bạn có thể thấy những nhân tố đóng góp phía bên ngoài của chiến tranh, những học thuyết, chúng ta không phải tìm hiểu điều đó. 

Tiếp theoxung đột bên trong, mà còn phức tạp hơn nhiều. Tại sao lại có xung đột trong chúng ta? Chúng ta đang tìm hiểu; chúng ta không đang nói rằng chúng ta nên hay không nên có xung đột. Chúng ta đang tìm hiểu nó; và muốn thực hiện điều đó chúng ta phải rất rõ ràng trong suy nghĩ của chúng ta, bén nhạy và tỉnh táo cực độ trong quan sát toàn cấu trúc và ý nghĩa của xung đột. Tại sao có xung đột? Chúng ta có ý gì qua từ ngữ đấu tranh đó? Chúng ta đang tìm hiểu ý nghĩa của từ ngữ, không phải điều gì tạo ra xung đột. Khi nào chúng ta ý thức được từ ngữ này, sự kiện này? Chỉ khi nào có đau khổ, một mâu thuẫn, sự theo đuổi của vui thú và sự phủ nhận của nó. Tôi ý thức được xung đột chỉ khi nào hình thức vui thú của tôi trong thành tựu, trong tham vọng thuộc vô số dạng, bị cản trở. Khi vui thú của tham vọng bị tuyệt vọng, lúc đó tôi ý thức được xung đột, nhưng chừng nào vui thú đó còn tiếp tục không bị cản trở, tôi không có ý thức của xung đột gì cả. Có vui thú trong tuân phục. Tôi muốn tuân phục vào xã hội bởi vì nó bù đắp cho tôi; nó cho tôi lợi lộc. Cho an toàn, cho một phương tiện kiếm sống, trở nên nổi tiếng, được công nhận, là ai đó trong xã hội, tôi phải tuân phục vào sự chuẩn mực, vào khuôn mẫu được thiết lập bởi xã hội. Chừng nào tôi còn đang tuân phục vào nó tuyệt đối, mà là một vui thú vô cùng, không có xung đột; nhưng có xung đột khoảnh khắc có một xao lãng khỏi sự tuân phục đó. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12833)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12758)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11802)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11783)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12401)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12452)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19897)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 12047)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 12070)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16947)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12732)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15150)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16197)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12948)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12311)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11973)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11975)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13218)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16566)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13288)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12570)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11906)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19924)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11229)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11322)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10458)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11154)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 11017)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10075)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11798)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
(Xem: 11689)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 12008)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11151)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11394)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12116)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12603)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10824)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 18044)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11759)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9995)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 11283)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 13232)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 16629)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 11915)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10975)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 11913)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 28867)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12429)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 53162)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35558)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 16118)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 12245)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12384)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 11460)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17258)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 15037)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 14660)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13920)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11776)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15106)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant