Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

05. Poona, 1 tháng chín 1948

11 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 6174)
05. Poona, 1 tháng chín 1948

KRISHNAMURTI
BÀN VỀ XUNG ĐỘT [ON CONFLICT]
Lời dịch: ÔNG KHÔNG – 2009

Poona, 1 tháng chín 1948

Người hỏi: Vì chiến tranh và sự hủy diệt nhân loại có thể xảy ra bởi bom nguyên tử, liệu không vô ích khi chỉ tập trung vào sự thay đổi cá thể hay sao?

Krishnamurti: Đây là một câu hỏi rất phức tạpyêu cầu sự tìm hiểu rất kỹ càng. Tôi hy vọng bạn sẽ có đủ kiên nhẫn để theo sát từng bước một cùng tôi và không ngừng lại nửa chừng. Những nguyên nhân của chiến tranh khá rõ ràng rồi, và ngay cả một em học sinh cũng có thể thấy chúng – tham lam, chủ nghĩa quốc gia, sự tìm kiếm quyền lực, những phân chia quốc gia và địa lý, những xung đột kinh tế, những chính phủ cầm quyền, chủ nghĩa ái quốc, một học thuyết, dù thuộc phe tả hay phe hữu, đang cố gắng áp đặt vào phe khác, và vân vân. Những nguyên nhân này được tạo ra bởi bạn và tôi. Chiến tranh là sự biểu lộ thu hút nhiều người hơn thuộc sự tồn tại hàng ngày của chúng ta. Chúng ta đồng hóa mình với một nhóm đặc biệt, quốc gia, tôn giáo, hay chủng tộc, bởi vì nó cho chúng ta một ý thức của uy quyền, và chắc chắn uy quyền tạo ra thảm họa. Bạn và tôi chịu trách nhiệm cho chiến tranh, không phải Hitler, Stalin, hay người siêu lãnh đạo nào đó. Thật tiện lợi khi nói rằng những người tư bản hay những người lãnh đạo điên khùng chịu trách nhiệm cho chiến tranh. Tận đáy lòng, mỗi người chúng ta đều muốn giàu có; mỗi người chúng ta đều muốn quyền hành. Đây là những nguyên nhân của chiến tranh, mà bạn và tôi phải chịu trách nhiệm

Tôi nghĩ rất rõ ràng rằng chiến tranh là hậu quả thuộc sự tồn tại hàng ngày của chúng ta, chỉ thu hút nhiều người hơn, đẫm máu hơn thế. Bởi vì chúng ta đang cố gắng tích lũy những sở hữu, chất đống tiền bạc, tự nhiên chúng ta tạo ra một xã hội với những rào cản, những biên giới, và những bức tường thuế quan; và khi một quốc gia cô lập xung đột với một quốc gia khác, chắc chắn chiến tranh xảy ra – đó là một sự kiện. Tôi không hiểu liệu bạn đã suy nghĩ về vấn đề này. Chúng ta đang đối diện với chiến tranh, và chúng ta không phải tìm ra ai chịu trách nhiệm cho nó hay sao? Chắc chắn một con người sáng suốt sẽ thấy rằng anh ta chịu trách nhiệm và sẽ nói, “Nhìn kìa, tôi đang tạo ra chiến tranh này. Vì vậy tôi sẽ không là người theo chủ nghĩa quốc gia nữa. Tôi sẽ không có chủ nghĩa ái quốc, không có dân tộc. Tôi sẽ không là người Ấn độ giáo, người Hồi giáo, người Thiên chúa giáo, nhưng là một con người.” Điều đó cần đến một nhận biếtsuy nghĩ rõ ràng nào đó, mà hầu hết chúng ta đều không sẵn lòng đối diện. Nếu thuộc cá thể bạn phản đối chiến tranh – nhưng không phải vì lợi ích của một lý tưởng, bởi vì những lý tưởng là một cản trở cho hành động trực tiếp – bạn sẽ làm gì? Một con người sáng suốtphản đối chiến tranh sẽ làm gì? Đầu tiên, anh ta phải lau sạch cái trí riêng của anh ta, làm tự do chính anh ta khỏi những nguyên nhân của chiến tranh, như là tham lam. Vậy là bởi vì bạn chịu trách nhiệm cho chiến tranh, điều cốt lõi là bạn phải tự làm tự do chính bạn khỏi những nguyên nhân của nó. Cùng những sự việc khác, điều đó có nghĩa bạn không còn là người thuộc quốc gia. Bạn sẵn lòng thực hiện điều đó chứ? Chắc chắn không, bởi vì bạn thích được gọi là người Ấn độ giáo, một người Bà la môn, hay bất kỳ nhãn hiệu nào bạn mang. Điều đó có nghĩa bạn tôn sùng cái nhãn hiệu và thích nó hơn là sống một cách thông minh và hợp lý; vậy thì bạn sẽ bị hủy diệt, dù bạn thích nó hay không.

Một con người sẽ làm gì nếu anh ta muốn làm tự do chính anh ta khỏi những nguyên nhân của chiến tranh? Bằng cách nào anh ta sẽ chấm dứt chiến tranh? Động lực của tham lam, uy quyền của chủ nghĩa quốc gia, mà mỗi con người đã sắp xếp chuyển động – liệu chúng có thể được chấm dứt? Chắc chắn chúng không thể. Chiến tranh có thể được chấm dứt chỉ khi nào nước Nga, nước Mỹ, và tất cả chúng ta tự thay đổi tức khắc và nói rằng chúng ta sẽ không có chủ nghĩa quốc gia; chúng ta sẽ không là những người Nga, những người Mỹ, những người Ấn độ, những người Hồi, những người Đức, hay những người Anh, nhưng là những con người; chúng ta sẽ là những con người trong liên hệ, cố gắng sống hạnh phúc cùng nhau. Nếu những nguyên nhân của chiến tranh được xóa sạch trong quả tim và cái trí, vậy là không có chiến tranh. Nhưng động lực của uy quyền vẫn còn đang tiếp tục. Tôi sẽ cho bạn một ví dụ. Nếu một ngôi nhà đang cháy, bạn sẽ làm gì? Chúng ta cố gắng cứu được ngôi nhà càng nhiều càng tốt, và sau đó chúng ta tìm hiểu những nguyên nhân của vụ hỏa hoạn. Chúng ta tìm ra loại gạch đúng, vật liệu chống cháy phù hợp, công việc xây dựng được cải tiến, và vân vân, và chúng ta xây dựng mới mẻ lại. Nói cách khác, chúng ta rời ngôi nhà đang cháy. Tương tự, khi một nền văn minh đang tự sụp đổ, đang tự hủy diệt, những con người sáng suốt hiểu rằng họ không thể làm bất kỳ điều gì cho nó, xây dựng một ngôi nhà mới mà sẽ không bị cháy. Chắc chắn đó là cách duy nhất phải hành động, đó là phương pháp hợp lý duy nhất – không phải là đổi mới cái cũ kỹ, vá víu ngôi nhà đang cháy.

Bây giờ, nếu tôi phải tập họp cùng một lúc, tại buổi gặp mặt này và nơi nào khác, tất cả những người mà cảm thấy họ thực sự được tự do khỏi những nguyên nhân của chiến tranh, điều gì sẽ xảy ra? Đó là, liệu hòa bình có thể được tổ chức? Hãy thấy những hàm ý của nó, hãy thấy điều gì được bao hàm trong khi tổ chức hòa bình. Một trong những nguyên nhân của chiến tranh là sự ham muốn quyền lựccá thể, nhóm người, và quốc gia. Điều gì xảy ra nếu chúng ta thành lập một tổ chức vì hòa bình? Chúng ta trở thành một tâm điểm của quyền lực, và sự theo đuổi quyền lực là một trong những nguyên nhân của chiến tranh. Khoảnh khắc chúng ta thành lập những tổ chức vì hòa bình, chắc chắn chúng ta mời mọc quyền lực; và khi chúng taquyền lực, lại nữa chúng ta đang tạo ra những nguyên nhân của chiến tranh. Vì vậy tôi phải làm gì? Thấy rằng một trong những nguyên nhân của chiến tranh là quyền lực, tôi sẽ phản đối chiến tranh, mà có nghĩa quyền lực thêm nữa? Trong ngay tiến hành của phản đối, tôi không đang tạo ra quyền lực hay sao? Vì vậy vấn đề của tôi hoàn toàn khác hẳn. Nó không là một vấn đề thuộc tổ chức. Tôi không thể nói chuyện với một nhóm người, nhưng chỉ với bạn như một cá thể, đang trình bày cho bạn những nguyên nhân của chiến tranh. Bạn và tôi như những cá thể phải suy nghĩ về nó và không bỏ mặc cho người nào khác. Chắc chắn, giống như trong một gia đình, khi có thương yêu, khi có nhân từ, chúng ta không cần sự tổ chức vì hòa bình. Điều gì chúng ta cần là sự hiểu rõ lẫn nhau, sự cộng tác lẫn nhau. Khi không có tình yêu, chắc chắn có chiến tranh.

Muốn hiểu rõ vấn đề phức tạp của chiến tranh, người ta phải tiếp cận nó rất đơn giản. Tiếp cận nó đơn giảnhiểu rõ sự liên hệ riêng của người ta với thế giới. Nếu trong sự liên hệ đó có một ý thức của uy quyền, một ý thức của thống trị, chắc chắn sự liên hệ đó tạo ra một xã hội được đặt nền tảng trên quyền lực, trên thống trị, mà luân phiên tạo ra chiến tranh. Tôi có lẽ thấy điều đó rất rõ ràng, nhưng nếu tôi nói với mười người về nó và tổ chức họ, tôi đã làm gì? Tôi đã tạo ra quyền lực, phải không? Không tổ chức là cần thiết. Sự tổ chức là yếu tố quyền lực mà tạo ra chiến tranh. Phải có những cá thểphản đối chiến tranh; nhưng khi bạn tập họp họ vào một tổ chức hay đại diện cho một tín điều, bạn ở cùng vị trí như người hiếu chiến. Hầu hết chúng ta đều thỏa mãn với những từ ngữ, chúng ta sống bằng những từ ngữ mà chẳng có ý nghĩa gì cả, nhưng nếu chúng ta tìm hiểu vấn đề rất kỹ càng, rất rõ ràng, vậy thì tự vấn đề phơi bày đáp án. Bạn không phải tìm kiếm nó. Vì vậy mỗi người chúng ta phải ý thức được những nguyên nhân của chiến tranh, và mỗi người phải được tự do khỏi chúng.

Người hỏi: Thay vì có những bàn luận tỉ mỉ về một vấn đề như đang là và đang trở thành, tại sao ông không chuyên tâm đến những vấn đề nóng bỏng của quốc gia và chỉ cho chúng tôi một lối thoát. Ví dụ, quan điểm của ông như thế nào về những vấn đề của sự đoàn kết Hồi giáo-Ấn độ giáo, sự hữu nghị Ấn độ-Pakistan, sự kình địch Ba la môn và không-Ba la môn? Ông sẽ thực hiện một giúp ích vĩ đại nếu ông có thể đề nghị một giải pháp cho những vấn đề khó khăn này.

Krishnamurti: Liệu nên có sự đoàn kết giữa những người Ấn độ giáoHồi giáo là một vấn đề giống như những vấn đề mà những con người khắp thế giới đang gặp phải. Chúng là những vấn đề khó giải quyết – hay chúng là những vấn đề không chín chắn, trẻ con? Chắc chắn, đáng ra chúng ta nên vượt qua loại vấn đề trẻ con này, và bạn gọi chúng là những vấn đề nóng bỏng của một ngày à? Khi bạn gọi mình là một người Ấn độ giáo và nói bạn phụ thuộc vào một tôn giáo đặc biệt, bạn không đang cãi cọ trên những từ ngữ hay sao? Bạn có ý gì qua từ ngữ Ấn độ giáo? Một nhóm của những niềm tin, những giáo điều, những truyền thống, và những mê tín. Tôn giáo là một vấn đề của niềm tin? Chắc chắn, tôn giáo là sự tìm kiếm sự thật, và những người tôn giáo không là những người có những ý tưởng xuẩn ngốc này. Con người đang tìm kiếm sự thật là một con người tôn giáo, và anh ta không cần đến những nhãn hiệu – Ấn độ giáo, Hồi giáo, hay Thiên chúa giáo. Tại sao chúng ta lại gọi mình bằng những cái tên này? Bởi vì chúng ta không là những người tôn giáo thực sự. Nếu chúng ta có tình yêu, nhân từ trong những tâm hồn của chúng ta, chúng ta chẳng thèm để ý điều gì chúng ta gọi về chính chúng ta – và đó là tôn giáo. Chỉ do bởi những tâm hồn của chúng ta bị trống rỗng nên chúng bị nhét đầy những sự việc quá trẻ con – và là những câu hỏi mà bạn gọi là nóng bỏng! Chắc chắn điều đó rất thiếu chín chắn. Liệu có nên là những người Ba la môn và không-Ba la môn – đây là những vấn đề nóng bỏng, hay chúng là một cái bình phong mà bạn đang ẩn núp đằng sau nó? Rốt cuộc, ai là một người Ba la môn? Chắc chắn, không phải là người mang một sợi chỉ thiêng liêng. Một người Ba la môn là một người mà hiểu rõ, mà không có uy quyền trong xã hội, được độc lập khỏi xã hội, không tham lam, không đang tìm kiếm quyền hành, ở bên ngoài mọi quyền hành – một người như thế là một người Ba la môn. Bạn và tôi là những người như thế? Chắc chắn, chúng ta không là. Vậy thì tại sao lại gọi chúng ta bằng một nhãn hiệu mà chẳng có ý nghĩa gì cả? Bạn gọi mình bằng nhãn hiệu đó bởi vì nó gây lợi lộc; nó tặng bạn một vị trí trong xã hội. Một người thông minh không phụ thuộc vào bất kỳ nhóm nào; anh ta không tìm kiếm vị trí trong một xã hội, mà chỉ nuôi dưỡng chiến tranh. Nếu bạn thực sự thông minh, sẽ không đặt thành vấn đề bạn được gọi là gì; bạn sẽ không tôn sùng một nhãn hiệu. Nhưng những nhãn hiệu, những từ ngữ trở thành quan trọng khi tâm hồn bị trống rỗng. Bởi vì tâm hồn bạn bị trống rỗng, bạn bị sợ hãi và sẵn lòng giết chết những người khác. Nó là một vấn đề thực sự vô lý, vấn đề của những người Ấn độ giáo và những người Hồi giáo này. Khi bạn thấy những người thiếu chín chắn đang gây ra một mớ những sự việc hỗn loạn, bạn làm gì? Chẳng ích lợi gì khi xúc phạm họ. Hoặc bạn cố gắng giúp đỡ họ, hoặc bạn rút lui và để họ hoàn toàn được tự do để tạo tác mớ hỗn loạn của họ. Họ thích những trò chơi của họ, vì vậy bạn rút lui và xây dựng một văn hóa mới mẻ, một xã hội mới mẻ. Chủ nghĩa quốc gia là một độc hại, chủ nghĩa ái quốc là một loại thuốc kích thích, và những xung đột thế giới là một xao lãng khỏi sự liên hệ trực tiếp cùng con người. Nếu bạn biết điều đó, liệu bạn còn có thể buông thả trong họ nữa hay không? Nếu bạn thấy điều đó rõ ràng, sẽ không có sự phân chia giữa Ấn độ giáoHồi giáo. Lúc đó vấn đề của chúng ta rộng lớn hơn nhiều, và do đó chúng ta sẽ không bị mất hút trong những vấn đề xuẩn ngốc khi đối diện những vấn đề thực sự của sống.

Những vấn đề của sống này ngay tại tầm tay, trong trận chiến giữa bạn và tôi, giữa người chồng và người vợ, giữa bạn và người hàng xóm của bạn. Từ sống cá thể của chúng ta chúng ta đã tạo ra sự hỗn loạn này, những cãi cọ này giữa Ba la môn và không-Ba la môn, giữa Ấn độ giáoHồi giáo. Bạn và tôi đã đóng góp cho sự hỗn loạn này, và chúng ta chịu trách nhiệm trực tiếp, không phải những người lãnh đạo nào đó. Bởi vì nó là trách nhiệm của chúng ta, chúng ta phải hành động; và muốn hành động, chúng ta phải suy nghĩ đúng đắn; và muốn suy nghĩ đúng đắn, chúng ta phải gạt đi những vấn đề trẻ con, tất cả mọi điều chúng ta biết đều hoàn toàn giả dối và chẳng có ý nghĩa gì cả. Muốn là những con người chín chắn, chúng ta phải gạt đi những món đồ chơi vô lý của chủ nghĩa quốc gia, của tôn giáo có tổ chức, của theo đuôi một người nào đó thuộc chính trị hay tôn giáo. Đó là vấn đề của chúng ta. Nếu bạn thực sự khẩn thiết, nghiêm túc về tất cả điều này, vậy là bạn sẽ tự nhiên được tự do khỏi những hành động trẻ con, khỏi gọi chính bạn bằng những nhãn hiệu đặc biệt, dù thuộc quốc gia, chính trị, hay tôn giáo, và chỉ đến lúc đó chúng ta sẽ có một thế giới hòa bình. Những nếu bạn chỉ lắng nghe, bạn sẽ rời đây và làm chính xác cùng sự việc mà bạn đã làm trước kia. Tôi biết bạn cười nhạo – và đó là nơi thảm kịch hiện diện. Bạn không hứng thú chấm dứt chiến tranh; thực sự bạn không hứng thú có hòa bình trong thế giới này.

Chúng ta đang ở sát cạnh một thảm họa. Toàn văn minh này mà con người đã tin tưởng có lẽ bị hủy diệt; những sự vật mà chúng ta đã tạo ra, đã dịu dàng vun đắp – lúc này mọi thứ đều đang bị đe dọa. Với con người muốn cứu anh ta khỏi thảm họa, phải có một cách mạng thực sự – không phải một cách mạng đổ máu nhưng một cách mạng tái tạo bên trong. Không thể có tái tạo nếu không hiểu rõ về chính mình. Nếu không hiểu rõ bạn, bạn không thể làm gì cả. Chúng ta phải suy nghĩ ra mọi vấn đề mới mẻ lại; và muốn thực hiện điều đó, chúng ta phải được tự do chính chúng ta khỏi quá khứ, mà có nghĩa rằng tiến trình tư tưởng phải kết thúc. Vấn đề của chúng tahiểu rõ hiện tại trong kích cỡ to lớn của nó cùng những thảm họa và những đau khổ không tránh khỏi của nó – chúng ta phải đối diện tất cả nó mới mẻ lại. Không thể có mới mẻ nếu chúng ta chỉ mang theo quá khứ, nếu chúng ta phân tích hiện tại qua tiến trình tư tưởng. Đó là lý do tại sao, muốn hiểu rõ một vấn đề, tiến trình tư tưởng phải kết thúc. Khi cái trí đứng yên, tĩnh lặng, yên ổn – chỉ lúc đó vấn đề được giải quyết. Vì vậy hiểu rõ về chính bạn là điều cốt lõi. Bạn và tôi phải là những con người tốt lànhchân thật, tuyên xưng một tư tưởng mới mẻ, một hạnh phúc mới mẻ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12833)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12758)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11803)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11786)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12403)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12453)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19901)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 12047)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 12070)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16947)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12733)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15150)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16200)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12954)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12312)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11973)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11977)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13221)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16567)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13291)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12572)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11906)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19925)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11229)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11323)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10460)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11155)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 11018)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10076)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11800)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
(Xem: 11689)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 12013)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11156)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11394)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12117)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12604)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10827)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 18047)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11763)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9999)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 11284)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 13232)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 16633)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 11916)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10978)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 11914)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 28868)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12430)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 53166)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35559)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 16118)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 12246)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12385)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 11462)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17260)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 15040)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 14663)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13921)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11783)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15110)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant