Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

25. Bombay, 7 tháng hai 1985

11 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 7024)
25. Bombay, 7 tháng hai 1985

KRISHNAMURTI
BÀN VỀ XUNG ĐỘT [ON CONFLICT]
Lời dịch: ÔNG KHÔNG – 2009

Bombay, 7 tháng hai 1985

Liệu bạn có thể nhìn cái gì đó mà không có từ ngữ? Liệu bạn có thể, khi bạn đang ngồi đây, nhìn con người này mà không có từ ngữ, hình ảnh, danh tiếng, mọi thứ vớ vẩn đó? Từ ngữ, hình ảnh, ký ức, tất cả thứ đó, không là người quan sát hay sao? Người quan sát không là lai lịch của là một người Ấn độ giáo, hay một người Hồi giáo, hay bất kỳ người nào, cùng tất cả những mê tín, những niềm tin, những dính líu hay sao? Chính bởi ký ức mới làm cho người quan sát dường như khác hẳn vật được quan sát. Liệu bạn có thể nhìn, quan sát, mà không có lai lịch, những kỷ niệm quá khứ tác động vào cái đang được quan sát? Khi bạn nhìn như thế, chỉ có cái đang được quan sát. Không có người quan sát đang quan sát vật được quan sát

Khi có một khác biệt, một phân chia, giữa người quan sát hay người chứng kiến, giữa người quan sát và vật được quan sát, phải có – như chúng ta đã nói lúc trước – sự xung đột. Và để hiểu rõ tại sao những con người sống trong xung đột từ khoảnh khắc họ sinh ra đời đến khi họ chết là để tìm ra tại sao sự phân chia này giữa người quan sát và vật được quan sát lại tồn tại, hay liệu chỉ có vật được quan sát.

Điều gì chúng ta đang nói là, bất kỳ nơi nào có một phân chia, phải có xung đột. Đó là một luật lệ, một luật lệ vĩnh cửu. Nơi nào có sự tách rời, một phân chia, một vỡ thành hai mảnh, phải có xung đột. Xung đột đỉnh điểm trở thành chiến tranh, giết chết con người. Như lúc này đang được phơi bày trong thế giới, ở Mỹ, Nga, Lebanon, thế giới Hồi giáo, và thế giới không-Hồi giáo, có xung đột. Vì vậy hiểu rõ và được tự do khỏi xung đột, thực sự được tự do khỏi nó, là hiểu rõ tại sao người quan sát trở nên quá thống trị, tách rời khỏi anh ấy, hay chị ấy, cái người hay vật đang được quan sát. Khi tôi quan sát nếu tôi lập gia đình hay có một bạn gái, có một phân chia giữa chúng ta, một phân chia thực tế, không chỉ thân thể nhưng một phân chia truyền thống, uy quyền của cha mẹ, uy quyền của người nào đó, vì vậy luôn luôn có phân chia giữa những liên hệ của chúng ta và luôn luôn có những xung đột giữa những con người.

Chẳng có bao nhiêu người trong thế giới có một liên hệ trong đó không còn xung đột, và xung đột đó tồn tại bởi vì chúng ta đã tách rời người quan sát khỏi vật được quan sát. Tôi khác biệt sự tức giận của tôi, sự ganh ghét của tôi, sự đau khổ của tôi; vậy là bởi vì khác biệt, có xung đột. Đó là, “Tôi phải loại bỏ sự đau khổ. Hãy bảo cho tôi làm thế nào khuất phục sự đau khổ. Hãy bảo cho tôi phải làm gì với sự sợ hãi của tôi.” Thế là có xung đột, mãi mãi. Nhưng bạn là đau khổ. Bạn không khác biệt đau khổ, tức giận, những ham muốn tình dục của bạn, phải không? Bạn không khác biệt trạng thái cô độc mà bạn cảm thấy – bạn là cô độc. Nhưng chúng ta nói, “Vâng, tôi là cô độc, nhưng tôi phải tẩu thoát khỏi nó”. Vì vậy tôi đi đến ngôi đền hay sự giải trí nào đó. Bạn không khác biệt chất lượng của bạn là gì; chất lượng đó là bạn. Tôi là tức giận, đau khổ, cô độc, trầm uất. Lúc này, trước kia, khi tôi đã tách rời, tôi đã hành động vào sự đau khổ của tôi. Nếu tôi đã bị cô độc, tôi đã tẩu thoát khỏi trạng thái cô độc đó, đã cố gắng khuất phục hay đã phân tích hay đã lấp đầy nó bằng mọi loại vui chơi hay hoạt động tôn giáo. Nhưng nếu tôi là cô độc, tôi không thể làm bất kỳ điều gì về nó. Tôi là cô độc – nhưng không phải tôi là cô độc như cái gì đó khác biệt tôi – tôi là cái đó. Trước đây tôi đã hành động vào nó; lúc này tôi không thể hành động vào nó bởi vì tôi là cái đó.

Vậy là điều gì xảy ra khi người quan sát là vật được quan sát? Khi tức giận là tôi, lúc đó điều gì xảy ra? Bạn đã tìm hiểu điều này, hay bạn chỉ nói, “Vâng, tôi là người quan sát và vật được quan sát”? Điều đó vô nghĩa. Nhưng hãy thâm nhập vào nó và tìm ra liệu sự tức giận có khác biệt bạn. Truyền thống, tình trạng bị quy định nói, “Tôi khác biệt sự tức giận của tôi”, và thế là bạn hành động vào nó. Nhưng khi bạn nhận ra rằng bạn là tức giận, bạn làm gì, điều gì xảy ra?

Trước hết, tất cả xung đôt kết thúc. Tất cả xung đột kết thúc khi bạn nhận ra rằng bạn là cái đó. Tôi là da màu – chấm hết. Nó là một sự kiện – da màu sáng hay da màu đen hay da màu sẫm hay bất kỳ da màu gì. Vậy là bạn loại bỏ hoàn toàn tiến trình phân chia này mà tạo ra sự xung đột trong chính bạn.

Cũng vậy, tại sao chúng ta tạo ra một trừu tượng từ một sự kiện? Sự kiện là tôi là tức giận, tôi là ghen tuông, tôi là cô độc. Tại sao tôi biến nó thành một ý tưởng, một trừu tượng? Biến một sự kiện thành một trừu tượng dễ dàng hơn đối diện nó? Bởi vì tôi có thể đùa giỡn với những ý tưởng, tôi nói, “Vâng, đây là một ý tưởng hay; đó là một ý tưởng dở; thuyết phục tôi, ông đừng thuyết phục tôi”. Tôi có thể tiếp tục giống như thế. Khi không có trừu tượng nhưng chỉ sự kiện, vậy là tôi phải giải quyết nó. Nhưng lúc đó tôi tự tách rời và nói, “Tôi sẽ làm điều gì đó về nó”. Khi người ta nhận ra không có tách rời – bạn là cái đó, bạn là “cái gì là”, bạn là một người Ấn độ giáo, một người Hồi giáo, một người Thiên chúa giáo; bạn là một người kinh doanh, bạn là xấu xa, bạn là hung dữ; bạn là tất cả cái đó – vậy là bạn tự loại bỏ hoàn toàn ý tưởng của phân chia trong chính bạn, và vậy là xung đột kết thúc. Bạn biết bộ não như thế nào khi không có xung đột? Khi bộ não đang xung đột liên tục, như bộ não của hầu hết mọi người, điều gì xảy ra cho bộ não đó? Nó bị tổn thương, bị hư hỏng.

Có thể bạn đã sống quá lâu cùng xung đột, đau khổ, phiền muộn, và sợ hãi, và bạn đã nói, “Nó là thành phần thuộc sống của tôi, tôi sẽ chấp nhận nó”, và bạn đã sống trên hướng đó. Chưa bao giờ bạn đã tìm hiểu sự xung đột gây tác hại như thế nào cho bộ não, tinh thần, của một con người. Nếu người ta liên tục bị dồn dập, bị tơi tả bởi xung đột, bạn biết điều gì xảy ra cho bộ não? Nó co rúm lại. Nó trở nên rất nhỏ nhen, giới hạn, xấu xa. Đó là điều gì đang xảy ra cho tất cả chúng ta. Vậy là một con người khá thông minh hỏi, “Tại sao tôi phải sống trong xung đột suốt phần còn lại của cuộc đời tôi?” Anh ấy bắt đầu tìm hiểu sự xung đột là gì. Xung đột phải hiện diện nơi nào có phân chia – bên trong cũng như bên ngoài. Sự phân chia này, thăm thẳm, cơ bản, là giữa cái “tôi”, người quan sát, và vật được quan sát. Hai hoạt động tách rời đang xảy ra – mà không đúng thực, bởi vì bạn là tức giận, bạn là bạo lực. Nếu bạn đến mấu chốt đó và nhận ra rằng người quan sát là vật được quan sát, có hoạt độnghoàn toàn khác hẳn.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12833)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12758)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11802)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11785)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12401)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12453)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19899)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 12047)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 12070)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16947)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12733)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15150)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16200)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12951)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12312)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11973)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11977)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13221)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16566)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13290)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12572)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11906)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19925)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11229)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11322)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10460)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11155)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 11017)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10076)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11799)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
(Xem: 11689)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 12009)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11155)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11394)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12117)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12604)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10827)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 18046)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11762)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9998)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 11283)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 13232)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 16632)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 11916)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10977)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 11914)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 28867)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12430)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 53166)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35559)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 16118)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 12246)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12385)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 11462)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17259)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 15040)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 14663)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13921)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11781)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15109)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant