Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

19. Ojai, 2 tháng năm 1982

11 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 6581)
19. Ojai, 2 tháng năm 1982

KRISHNAMURTI
BÀN VỀ XUNG ĐỘT [ON CONFLICT]
Lời dịch: ÔNG KHÔNG – 2009

Ojai, 2 tháng năm 1982

Cùng nhau chúng ta đang quan sát tại sao con người không thể sống hòa bình cùng nhau. Đó là một câu phát biểu về sự kiện, không bị phóng đại; và sự tiếp cận đến nó của chúng ta hoặc bằng sự quan sát khách quan, không-cá thể, thuần khiết hoặc bằng một phản ứng cá thể. Nếu bạn tiếp cận nó bằng một phản ứng cá thể, xung đột sẽ tiếp tục mãi mãi. Nhưng nếu bạn tiếp cận nó một cách khách quan, một cách bình thản, không có bất kỳ phương hướng nào – trạng thái của cái trí của bạn khi đang nhìn nghi vấn này là gì? Được rồi, chúng ta sẽ trình bày chúng một cách khác. Tại sao có sự xung đột giữa người đàn ông và người phụ nữ, người đàn ông và người đàn ông, bạn biết, toàn lãnh vực của sự liên hệ? Làm ơn hãy quan sát nó; tự trả lời nó cho chính bạn, tự thâm nhập vào nó; đừng phụ thuộc vào tôi, vào người nói – điều đó không có giá trị gì cả. Ông ta chỉ là một thực thể từ ngữ, một cái điện thoại. Bạn phải tìm ra tại sao. Chúng ta đang cùng nhau quan sát. Bạn không đang học từ người nói; ông ta không đang dạy bảo bạn điều gì cả. Bạn không là người môn đồ của ông ta; ông ta không là uy quyền của bạn; ông ta không là đạo sư của bạn.

Trong quan sát cùng nhau, chúng ta sẽ khám phá tại sao sự xung đột này hiện diện, liệu có thể kết thúchoàn toàn; không phải lý thuyết, không phải chỉ một ngày, nhưng kết thúc nó. Sự xung đột này hiện diện, phải hiện diện bởi vì – tôi không muốn bảo cho bạn, bởi vì nó trở thành xuẩn ngốc. Nếu tôi bảo cho bạn, bạn sẽ nói, vâng, điều đó hoàn toàn đúng; và sau đó bạn quay trở lại. Nó không là gì điều gì đó mà chính bạn đã tìm ra. Bạn biết chuyện gì xảy ra khi bạn tự khám phá điều gì đó cho chính bạn phần tâm lý? Bạn có năng lượng vô hạn, và bạn cần năng lượng đó để làm tự do cái trí khỏi tình trạng bị quy định của nó. Tôi cãi cọ với người vợ của tôi, nếu tôi có vợ, hay một người bạn gái, bất kỳ ai – cãi cọ với cô ấy bởi vì tôi là một người cô độc, tôi muốn chiếm hữu cô ấy. Tôi muốn lệ thuộc vào cô ấy; tôi muốn sự an ủi của cô ấy, sự khuyến khích của cô ấy, sự bầu bạn của cô ấy, người nào đó để khen rằng tôi là người tuyệt vời. Thế là tôi đang dựng lên một hình ảnh về cô ấy; và cô ấy cũng muốn được chiếm hữu, muốn được thỏa mãn tình dục nơi tôi, muốn tôi là cái gì đó khác hẳn tôi là gì. Mỗi người đang sống cùng nhau có lẽ được một ngày, một tuần lễ, hay nhiều năm đã dựng lên một hình ảnhtrở thành hiểu biết, hiểu biết về lẫn nhau.

Tôi xin phép tìm hiểu về vấn đề của hiểu biết một chốc lát. Điều này rất nghiêm túc. Hiểu biết gây hủy hoại trong sự liên hệ. Tôi nói rằng tôi biết người vợ của tôi bởi vì tôi đã sống chung cùng cô ấy, tôi biết tất cả những tính nết, những gắt gỏng, những bốc đồng của cô ấy, mà trở thành hiểu biết về cô ấy của tôi: cô ấy đi như thế nào, cô ấy uốn tóc như thế nào, cô ấy chuyển động như thế nào. Tôi đã lượm lặt nhiều thông tin và hiểu biết về cô ấy. Và cô ấy đã lượm lặt nhiều hiểu biết về tôi, từ quá khứhiểu biết luôn luôn là quá khứ – không có hiểu biết về tương lai. Vậy là chúng tahiểu biết về lẫn nhau này.

Tiếp theo chúng ta phải tìm hiểu nhiều về vấn đề của hiểu biết: hiểu biếtvị trí nào trong sống? Chúng ta có cùng nhau trong quan sát này? Hiểu biết sẽ thay đổi con người? Hiểu biếtvị trí nào trong sự thay đổi hay kết thúc của tình trạng bị quy định? Đây là tình trạng bị quy định: tôi đã quy định cô ấy qua hiểu biết, và cô ấy đã quy định tôi qua hiểu biết. Làm ơn, tôi không đang dạy bảo bạn. Bạn đang quan sát bằng tất cả khả năng, năng lượng của bạn để thấy sự kiện này: rằng nơi nào có sự hiểu biết trong liên hệ, phải có xung đột. Tôi phải có hiểu biết để lái một chiếc xe hơi, để viết một câu văn, để nói tiếng Anh hay tiếng Pháp. Tôi phải có hiểu biết công nghệ. Nếu tôi là một người thợ mộc giỏi, tôi phải có hiểu biết về gỗ, những dụng cụ tôi sử dụng, và vân vân; nhưng trong sự liên hệ với người vợ của tôi, với một người bạn, bất kỳ ai, sự hiểu biết mà tôi đã lượm lặt, đã sắp xếp vào cùng nhau qua gắt gỏng liên tục, phân chia liên tục, tham vọng, sẽ ngăn cản sự liên hệ thực tế.

Đây là một sự kiện, không chỉ là một phỏng đoán, một lý thuyết, một ý tưởng? Một ý tưởng là một trừu tượng khỏi một sự kiện. Từ ngữ Hy lạp idea có nghĩa quan sát, thấy, tiến rất gần sự nhận biết, không tạo ra một trừu tượngtrở thành một ý tưởng. Vì vậy chúng ta không đang giải quyết những ý tưởng, nhưng giải quyết sự liên hệ thực tế, mà là trong xung đột, và xung đột đó nảy sinh khi tôi đã tích lũy nhiều thông tin về cô ấy và cô ấy đã lượm lặt nhiều về tôi. Vậy là lúc đó sự liên hệ của chúng ta được đặt nền tảng trên hiểu biết, và hiểu biết không bao giờ có thể đầy đủ về bất kỳ thứ gì trong sống. Làm ơn hãy nhận ra điều này. Hiểu biết phải luôn luôn theo cùng cái bóng của dốt nát. Bạn không thể biết về vũ trụ. Những người vật lý thiên thể có lẽ diễn tả nó, nhưng để ý thức được tánh vô hạn của nó, không hiểu biết nào được cần đến qua thông tin; bạn phải có một cái trí thật bao la, tuyệt đối trật tự như vũ trụ hiện diện. Đó là một vấn đề khác hẳn.

 •

Vậy là rất quan trọng phải hiểu rõ vị trí của hiểu biếthiểu rõ vị trí của hiểu biết như một cản trở trong sự liên hệ. Tình yêu không là hiểu biết; tình yêu không là hồi tưởng. Khi không có hiểu biết về cô ấy, tôi nhìn cô ấy như một con người mới mẻ, trong sáng, mỗi ngày mới mẻ. Bạn biết điều đó có ý nghĩa gì không? Bạn có quá nhiều kiến thức, đầy hiểu biết sách vở, điều gì những người khác đã nói. Đó là lý do tại sao một việc đơn giản như thế này trở thành khó khăn cực kỳ để hiểu rõ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12833)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12758)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11803)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11786)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12403)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12453)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19901)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 12047)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 12070)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16947)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12733)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15150)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16200)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12955)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12312)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11973)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11977)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13221)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16567)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13291)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12572)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11906)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19925)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11229)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11323)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10460)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11155)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 11018)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10077)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11800)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
(Xem: 11689)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 12013)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11157)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11394)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12117)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12604)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10827)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 18047)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11763)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9999)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 11284)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 13232)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 16634)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 11916)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10978)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 11914)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 28868)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12430)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 53166)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35559)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 16118)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 12246)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12385)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 11462)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17261)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 15040)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 14663)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13921)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11784)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15110)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant