Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

10. New Delhi, 27 tháng mười 1963

11 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 6330)
10. New Delhi, 27 tháng mười 1963

KRISHNAMURTI
BÀN VỀ XUNG ĐỘT [ON CONFLICT]
Lời dịch: ÔNG KHÔNG – 2009

New Delhi, 27 tháng mười 1963

Trước khi chúng ta tìm hiểu vấn đề của xung đột và liệu có thể được tự do khỏi nó, dường như đối với tôi, chúng ta phải hiểu rõ cấu trúc của những từ ngữ, ý nghĩa chúng ta trao cho một từ ngữ đặc biệt, và qua sự ý thức được từ ngữ khám phá cái trí bị trói buộc trong mạng lưới của chúng như thế nào. Bởi vì chúng ta, hầu hết mọi người, sống bằng những công thức, bằng những ý tưởng, hoặc tự tạo hoặc truyền cho chúng ta bởi xã hội, mà chúng ta gọi là những lý tưởng, sự cần thiết phải có một khuôn mẫu nào đó để chúng ta sống dựa vào nó. Nếu bạn tìm hiểu những công thức, những ý tưởng, những khái niệm, và những khuôn mẫu, bạn sẽ thấy rằng chúng là những từ ngữ, và những từ ngữ đó điều khiển những hoạt động của chúng ta, định hình những suy nghĩ của chúng ta, làm cho chúng ta cảm thấy trong một cách nào đó. Những từ ngữ quy định suy nghĩ của chúng ta, thân tâm của chúng ta.

Một cái trí bị trói buộc trong những từ ngữ không thể được tự do. Một cái trí đang vận hành bên trong khuôn mẫu của một công thức chắc chắn là một cái trí bị nô lệ, bị quy định. Nó không có khả năng suy nghĩ mới mẻ lại, trong sáng lại – và hầu hết suy nghĩ của chúng ta, hầu hết hoạt động của chúng ta, tư tưởng của chúng ta, đều ở trong những biên giới của những từ ngữ và những công thức. Ví dụ như từ ngữ Thượng đế hay tình yêu. Những hình ảnh, những công thức thật lạ thường hiện ra cho cái trí của bạn! Một con người mà muốn tìm ra liệu có Thượng đế, mà muốn tìm ra tình yêu có nghĩa gì, chắc chắn phải được tự do khỏi tất cả những khái niệm, tất cả những công thức. Và để được tự do khỏi công thức, khái niệm, cái trí lại khước từ phá vỡ, bởi vì có sợ hãi. Sợ hãi ẩn núp trong những từ ngữ, và chúng ta đấu tranh qua những từ ngữ. Vì vậy việc đầu tiên cho một con người mà muốn thực sự tìm hiểu điều này một cách nghiêm túc, với mục đích để khám phá liệu có hay không có một sự thật, cái gì đó vượt khỏi sự đo lường của những từ ngữ, là rằng anh ta phải tuyệt đối hiểu rõ những từ ngữ và được tự do khỏi những công thức.

Lúc này điều gì tôi muốn bàn luận là sự xung đột bên trong và bên ngoài và đang sống trong thế giới này, liệu có thể được tự do khỏi xung đột một cách tổng thể, không từng phần. Để được tự do tổng thể khỏi tất cả xung đột – liệu có thể được? Đừng nói, “Được” hay “Không được”. Một cái trí nghiêm túc không chấp nhận một vị trí như vậy; nó phải tìm hiểu; và cái trí phải được tự do khỏi xung đột mà tạo ra hỗn loạn, mâu thuẫn, vô số hình thức khác nhau của loạn thần kinh. Nếu nó không được tự do khỏi sự hỗn loạn này, làm thế nào một cái trí như thế có thể thấy, hiểu rõ, quan sát? Nó chỉ có thể thêu dệt nhiều từ ngữ về sự thật, không-bạo lực, Thượng đế, hạnh phúc, Niết bàn – và chúng chẳng có ý nghĩa gì cả.

Một cái trí muốn tìm ra sự thật phải được tự do khỏi xung đột tại mọi mức độ của ý thức – mà không có nghĩa theo đuổi hòa bình, rút lui khỏi thế giới, đi đến một tu viện, hay tham thiền dưới một cái cây; đó chỉ là một tẩu thoát. Nó phải 
được tự do tổng thể, tại mọi mức độ của ý thức, khỏi tất cả xung đột để cho cái trí được rõ ràng. Chỉ một cái trí rõ ràng có thể được tự do, và chỉ trong sự tự do hoàn toàn bạn mới có thể khám phá điều gì là sự thật.

Vậy là chúng ta phải tìm hiểu toàn chi tiết, cấu trúc của xung đột. Bạn không đang lắng nghe tôi, bạn đang lắng nghe ý thức riêng của bạn. Bạn đang lắng nghe, đang quan sát, đang thấy xung đột trong sống riêng của bạn – dù nó trong văn phòng, cùng người vợ hay người chồng của bạn, con cái của bạn, người hàng xóm của bạn, những lý tưởng của bạn – đang quan sát xung đột riêng của bạn. Bởi vì điều gì chúng ta quan tâm là sự cách mạng trong bạn, không phải trong tôi, cách mạng trong mỗi người chúng ta tại cơ bản, tại ngay gốc rễ của thân tâm người ta. Ngược lại thay đổi chỉ hời hợt, một điều chỉnh mà chẳng có giá trị gì cả. Thế giới đang trải qua những thay đổi lớn lao không chỉ trong công nghệ mà còn cả luân lý, đạo đức; và chỉ điều chỉnh chính mình đến một thay đổi không tạo ra sự rõ ràng của tầm nhìn, sự rõ ràng của cái trí. Điều gì tạo ra sự rõ ràng lạ thường là khi cái trí đã hiểu rõ, tổng thể, toàn tiến trình của xung đột cả bên trong lẫn bên ngoài; và chính sự hiểu rõ đó mang lại tự do. Một cái trí như thế là rõ ràng, và trong rõ ràng đó có vẻ đẹp. Một cái trí như thế là cái trí tôn giáo, không phải cái trí giả dối mà đi đến một ngôi đền, liên tục lặp lại những từ ngữ, thực hiện những nghi lễ mười ngàn lần – chúng không còn ý nghĩa gì cả.

Vậy thì, điều gì chúng ta quan tâmhiểu rõ xung đột – không phải làm thế nào loại bỏ xung đột, không phải làm thế nào thay thế xung đột bằng một loạt những công thức được gọi là hòa bình, hoặc kháng cự hoặc lẩn tránh xung đột nhưng hiểu rõ nó. Tôi hy vọng tôi đang giải thích rõ ràng khi tôi sử dụng từ ngữ hiểu rõ. Bạn biết, hiểu rõ điều gì đó là sống cùng nó, và bạn không thể sống cùng điều gì đó nếu bạn kháng cự nó, nếu qua sự sợ hãi của bạn bạn che đậy một sự kiện, nếu bạn chạy trốn, hay nếu, khi bạn đang gặp phải xung đột nghiêm trọng trong chính bạn, bạn tìm kiếm hòa bình – mà chỉ là một hình thức khác của tẩu thoát. Tôi đang sử dụng từ ngữ hiểu rõ trong một ý nghĩa đặc biệt, đó là, đối diện sự kiện mà bạn đang gặp xung đột và sống cùng nó trọn vẹn – không lẩn trốn, không tẩu thoát nó. Hãy thấy liệu bạn có thể sống cùng nó, không diễn giải nó, không mang vào những quan điểm của mọi người vào nó, nhưng sống cùng nó.

Trước hết, có xung đột không chỉ ở mức độ ý thức bên ngoài của cái trí mà còn cả bên trong, thăm thẳm. Chúng ta là một đống của những xung đột, những mâu thuẫn, không chỉ tại mức độ của tư tưởng mà còn cả tại mức độ mà tư tưởng-có ý thức không thể xuyên thấu. Điều này đòi hỏi sự chú ý trọn vẹn của bạn. Bạn đang gặp xung đột dù bạn thích nó hay không; sống của bạn là một đau khổ, hỗn loạn, một chuỗi của những mâu thuẫn – bạo lực và không-bạo lực. Tất cả những vị thánh đã hủy diệt bạn bởi những đặc điểm riêng của họ, bởi những khuôn mẫu đặc biệt của bạo lực và không-bạo lực của họ. Muốn phá vỡ tất cả điều đó, muốn tìm được cho chính bạn đòi hỏi sự chú ý, một trạng thái khẩn thiết để theo sát xuyên suốt đến mãi tận sự kết thúc của vấn đề.

Mọi thứ chúng ta làm đều tạo ra xung đột. Từ tuổi đi học đến lúc này chúng ta không biết một khoảnh khắc mà chúng ta không trải qua xung đột. Đi đến văn phòng, mà là một nhàm chán ghê gớm, những lời cầu nguyên của bạn, sự tìm kiếm Thượng đế của bạn, những kỷ luật của bạn, những liên hệ của bạn – mọi thứ đều có trong nó một hạt giống của xung đột. Điều này quá rõ ràng cho bất kỳ người nào muốn tự biết về chính anh ấy; khi anh ấy quan sát mình như trong một cái gương, anh ấy thấy anh ấy đang xung đột. Anh ấy làm gì? Tức khắc anh ấy muốn chạy trốn khỏi nó hay tìm ra một công thức mà sẽ thẩm thấu xung đột đó. Điều gì chúng ta đang cố gắng làm là nhìn ngắm xung đột này, không chạy trốn khỏi nó.

Xung đột nảy sinh khi có mâu thuẫn trong hoạt động của chúng ta, tư tưởng của chúng ta, thân tâm của chúng ta, bên ngoài và bên trong. Chúng ta chấp nhận xung đột như một phương cách của tiến bộ. Đối với chúng ta xung đột là một đấu tranh. Những điều chỉnh, những đè nén, vô vàn những ham muốn mâu thuẫn nhau, vô vàn những lôi kéo, những thôi thúc mâu thuẫn nhau – tất cả điều này tạo ra xung đột trong chúng ta. Chúng ta được nuôi dưỡng để có tham vọng, để tạo ra một thành công của sống; và nơi nào có tham vọngxung đột – điều này không có nghĩa rằng bạn phải đi ngủ, bạn phải tham thiền. Khi bạn hiểu rõ chính bản chất của xung đột, một năng lượng mới mẻ hiện diện, một năng lượng không bị vấy bẩn bởi bất kỳ nỗ lực nào, và đó là điều gì chúng ta sắp sửa tìm hiểu.

Vậy là trước hết hãy ý thức rằng chúng ta đang xung đột, không phải làm thế nào để thăng hoa nó, không phải làm gì về nó, không phải làm thế nào để đè nén nó, nhưng hãy ý thức và không làm bất kỳ điều gì về nó – đó là cần thiết. Chúng ta sẽ làm điều gì về nó sau, nhưng trước hết không làm bất kỳ điều gì về cái gì bạn đã phát hiện, về sự kiện rằng bạn đang trong xung đột, rằng bạn đang cố gắng tẩu thoát khỏi xung đột trong nhiều cách khác nhau. Đó là sự kiện; và khi bạn ở cùng sự kiện đó trong một vài phút, bạn sẽ thấy rằng cái trí của bạn chống đối lại trạng thái ở cùng nó đến mức độ nào. Nó muốn chạy trốn, hành động vào sự kiện đó, làm điều gì đó về sự kiện đó. Nó không bao giờ có thể sống cùng sự kiện đó. Muốn hiểu rõ điều gì đó, bạn phải sống cùng nó; và muốn sống cùng nó, bạn phải nhạy cảm tột đỉnh. Đó là, sống cùng một cái cây đẹp hay một bức tranh hay một con người – sống cùng nó không là quen thuộc nó. Khoảnh khắc bạn quen thuộc nó, bạn đã mất đi tánh nhạy cảm với nó. Đó là một sự kiện. Nếu tôi quen thuộc hòn núi nơi tôi sống suốt đời tôi, tôi không còn nhạy cảm với vẻ đẹp của đường nét, ánh sáng, hình thể, với sự rực rỡ lạ thường của nó vào buổi sáng hay chiều tối. Tôi quen thuộc nó – mà có nghĩa tôi trở nên vô cảm với nó. Trong cùng cách muốn sống cùng một sự việc xấu xí đòi hỏi cùng tánh nhạy cảm. Nếu tôi quen thuộc những con đường bẩn thỉu, những suy nghĩ xấu xa, những tình huống ghê tởm, quen thuộc chịu đựng mọi sự việc, lại nữa tôi trở nên vô cảm. Sống cùng cái gì đó, dù nó đẹp đẽ hay xấu xí, hay một việc mang lại đau khổ – sống cùng nó có nghĩa nhạy cảm với nó và không quen thuộc nó. Đó là việc đầu tiên.

Xung đột hiện diện không chỉ bởi vì chúng ta có những ham muốn mâu thuẫn, nhưng tất cả giáo dục của chúng ta, tất cả những áp lực thuộc tâm lý của xã hội tạo ra trong chúng ta sự phân chia này, sự chia cách này giữa cái gì là và cái gì nên là, giữa cái thực tế và cái lý tưởng. Chúng ta chất đầy những lý tưởng. Một cái trí rõ ràng không có những lý tưởng. Nó vận hành từ sự kiện sang sự kiện và không phải từ ý tưởng sang ý tưởng. Chúng ta biết xung đột không chỉ tại tầng ý thức bên ngoài mà còn cả tại tầng ý thức bên trong. Tôi không muốn bàn luận ở đây tầng ý thức bên ngoài là gì hay tầng ý thức bên trong là gì; chúng ta sẽ trình bày nó một ngày khác. Lúc này chúng ta quan tâm đến xung đột, xung đột xuyên suốt thân tâm của chúng ta, tại cả mức độ ý thức bên ngoài lẫn bên trong. Có xung đột. Bây giờ, bất kỳ nỗ lực nào để được tự do khỏi nó bao hàm một xung đột khác. Điều đó quá rõ ràng, quá hợp lý. Vậy là cái trí phải tìm ra một cách để được tự do khỏi xung đột mà không có nỗ lực. Nếu tôi kháng cự xung đột hay nếu tôi kháng cự tất cả những khuôn mẫu, tất cả những hàm ý được bao gồm trong xung đột, chính kháng cự đó là một mâu thuẫn khác và vì vậy một xung đột.

Hãy theo dõi, cho phép tôi giải thích nó rất đơn giản. Tôi nhận ra tôi đang xung đột. Tôi đang bạo lực, và tất cả những vị thánh và tất cả những quyển sách đều đã nói tôi không được như thế. Vậy là có hai sự việc mâu thuẫn trong tôi, bạo lực và cũng cả tôi phải không-bạo lực. Đó là một mâu thuẫn, hoặc tự áp đặt hoặc bị áp đặt vào tôi bởi những người khác. Trong tự-mâu thuẫn đó có xung đột. Bây giờ, nếu tôi kháng cự, dù với mục đích hiểu rõ hay với mục đích chạy trốn xung đột, tôi vẫn còn trong xung đột. Chính sự kháng cự tạo ra xung đột. Điều đó khá rõ ràng. Muốn hiểu rõ và được tự do khỏi xung đột. Phải không kháng cự nó, không tẩu thoát khỏi nó. Tôi phải quan sát, lắng nghe toàn nội dung của xung đột – với người vợ của tôi, con cái của tôi, với xã hội, với tất cả những ý tưởng mà tôi có. Nếu tôi nói được tự do khỏi xung đột trong sống này là điều không thể xảy ra được, vậy là chẳng còn liên hệ sâu đậm thêm nữa giữa bạn và tôi. Nhưng nếu bạn nói, “Tôi muốn tìm ra; tôi muốn tìm hiểu nó; tôi muốn xé nát cấu trúc của xung đột mà đang được dựng lên trong tôi và tôi là một bộ phận của nó”, vậy là bạn và tôi có một liên hệ; vậy là bạn và tôi có thể cùng nhau tiếp tục.

Mọi hình thức của kháng cự, tẩu thoát, và lẩn tránh khỏi xung đột chỉ làm gia tăng nó, và xung đột hàm ý hỗn loạn, hung bạo, khắc nghiệt. Một cái trí trong xung đột không thể từ bi, không thể có sự rõ ràng của từ bi. Vì vậy cái trí phải ý thức được xung đột mà không kháng cự, lẩn tránh, một quan điểm về nó. Trong chính động thái đó một kỷ luật được sinh ra – một kỷ luật mềm dẻo, một kỷ luật không bị đặt nền tảng trên bất kỳ công thức, bất kỳ khuôn mẫu, bất kỳ đè nén nào. Đó là quan sát toàn nội dung của xung đột bên trong, và chính sự quan sát đó mang theo cùng nó một cách tự nhiên, không nỗ lực, một kỷ luật. Bạn phải có kỷ luật này. Tôi đang sử dụng từ ngữ kỷ luật trong ý nghĩa của rõ ràng, trong ý nghĩa của một cái trí mà suy nghĩ rõ ràng, lành mạnh; và bạn không thể có một cái trí như thế nếu có xung đột.

Vì vậy đầu tiên điều cốt lõi là phải hiểu rõ xung đột. Có lẽ bạn sẽ nói, “Tôi không được tự do khỏi xung đột. Hãy chỉ cho tôi làm thế nào để được tự do khỏi nó”. Đó là khuôn mẫu bạn đã học. Bạn muốn được chỉ bảo làm thế nào để được tự do khỏi xung đột, và bạn sẽ theo đuổi khuôn mẫu đó với mục đích để được tự do khỏi xung đột và thế là vẫn còn trong nó. Điều đó quá đơn giản. Vậy là không có “làm thế nào”. Làm ơn hãy hiểu rõ điều này. Không có phương pháp trong sống. Bạn phải sống cùng nó. Một con người có một phương pháp để đạt được không-bạo lực hay trạng thái lạ thường nào đó chỉ bị trói buộc trong một khuôn mẫu; và khuôn mẫu có sản sinh một kết quả, nhưng nó sẽ không dẫn đến sự thật. Vì vậy khi bạn hỏi, “Làm thế nào tôi được tự do khỏi xung đột?” bạn đang rơi trở lại khuôn mẫu cũ kỹ – mà chỉ rõ rằng bạn vẫn còn trong xung đột, rằng bạn đã không hiểu rõ; mà lại nữa có nghĩa rằng bạn đã không sống rõ ràng cùng sự kiện.

Vì vậy đang ở trong xung đột hàm ý một cái trí hỗn loạn, và bạn có thể thấy điều này khắp thế giới. Mọi người chính trị trong thế giới bị hỗn loạn và đã mang lại đau khổ cho thế giới. Tương tự, những vị thánh đã mang lại đau khổ cho thế giới. Và nếu bạn khẩn thiết và muốn được tự do khỏi xung đột, bạn phải xóa sạch hoàn toàn mọi uy quyền trong bạn, bởi vì với một con người muốn tìm được sự thật không có uy quyền – cũng không kinh Gita, cũng không những vị thánh của bạn, cũng không những lãnh đạo của bạn – không người nào cả. Điều đó có nghĩa bạn đứng một mình hoàn toàn. Đứng một mình – mà xảy ra khi cái trí được tự do khỏi xung đột.

Bạn thấy, hầu hết chúng ta đều muốn trốn chạy sống, và chúng ta đã tìm được vô số phương cáchphương pháp để trốn chạy nó. Sống là một sự việc tổng thể, không phải một sự việc từng phần. Sống gồm có vẻ đẹp, tôn giáo, chính trị, kinh tế, những liên hệ, những cãi cọ, đau khổ, hành hạ, sự dày vò của tồn tại, tuyệt vọng. Tất cả việc đó là sống, không chỉ một phần, không chỉ một mảnh của nó, và bạn phải hiểu rõ tổng thể của nó. Điều đó đòi hỏi một cái trí lành mạnh, thông minh, rõ ràng. Đó là lý do tại sao bạn phải có một cái trí không còn xung đột, một cái trí không có dấu vết của xung đột, không bị trầy xước. Đó là lý do tại sao xung đột trong bất kỳ hình thức nào chỉ có thể được hiểu rõ bằng cách tỉnh thức được nó.

Qua từ ngữ “tỉnh thức” tôi có ý đang quan sát nó. Quan sát đòi hỏi rằng bạn không được nhìn nó bằng một quan điểm. Bạn phải nhìn nó không bằng những từ ngữ của bạn, không bằng những nhận xét của bạn, so sánh của bạn, chỉ trích của bạn. Nếu có chỉ trích, kháng cự, bạn không đang quan sát; vì vậy lúc đó quan tâm của bạn không là xung đột. Bạn không thể quan sát bất kỳ điều gì mà không có một ý tưởng, và việc đó trở thành một vấn đề cho bạn. Bạn muốn quan sát xung đột, nhưng bạn không thể quan sát nó nếu bạn mang vào một quan điểm hay ý tưởng hay đánh giá về xung đột đó hay kháng cự nó. Vậy thì quan tâm của bạn là tìm ra tại sao bạn kháng cự – không phải làm thế nào để hiểu rõ xung đột – tại sao bạn kháng cự. Vậy là bạn đã chuyển động khỏi xung đột và trở nên tỉnh thức được sự kháng cự của bạn. Tại sao bạn kháng cự? Bạn có thể tìm ra tại sao. Với hầu hết chúng ta, xung đột đã trở thành một thói quen. Nó đã làm cho chúng ta đờ đẫn đến độ chúng ta không còn bình thản tỉnh thức được nó. Chúng ta đã chấp nhận nó như một bộ phận của sự tồn tại. Khi bạn vô tình bắt gặp nó, thấy nó như một sự kiện, ngay lúc đó bạn kháng cự nó hay cố gắng lẩn tránh nó, tìm ra một phương cách thoát khỏi nó. Vậy thì quan sát sự kiện mà bạn kháng cự còn quan trọng nhiều hơn hiểu rõ xung đột – cách bạn đang lẩn tránh nó, đang mang một công thức cho nó. Thế là bạn bắt đầu quan sát những công thức, những quan điểm, những kháng cự của bạn. Bằng cách ý thức được tất cả chúng, bạn đang phá vỡ tình trạng bị quy định của bạn và thế là có thể đối diện xung đột.

Vì vậy để hiểu rõ xung đột và do đó được tự do khỏi nó, không phải cuối cùng, không phải tại sự kết thúc sống của bạn, không phải ngày mốt, nhưng tức khắc, tổng thể – và nó có thể làm được – đòi hỏi một khả năng kinh ngạc của quan sát, mà không phải được nuôi dưỡng bởi vì khoảnh khắc bạn nuôi dưỡng nó bạn quay trở lại xung đột. Điều gì quan trọng là trực nhận tức khắc toàn tiến hành, toàn nội dung của ý thứcquan sát tức khắc và vì vậy đang thấy sự thật của nó. Khoảnh khắc bạn thấy sự thật của nó, bạn vượt khỏi nó. Bạn không thể thấy sự thật của nó, trong bất kỳ hình thức nào, tại bất kỳ mức độ nào, nếu bạn cố gắng kháng cự, lẩn tránh, hay áp đặt vào nó những công thức nào đó mà bạn đã học được.

Điều đó nảy sinh một câu hỏi rất quan trọng, đó là: không có thời gian cho sự thay đổi. Hoặc bạn thay đổi ngay lúc này hoặc không bao giờ. Tôi không có ý “không bao giờ” trong ý nghĩa thông thường hay trong ý nghĩa Thiên chúa giáo của “đời đời trong địa ngục”. Tôi có ý: bạn thay đổi ngay lúc này trong hiện tại năng độnghiện tại năng động đó có lẽ là ngày mai, nhưng nó vẫn còn là hiện tại năng động; và chỉ trong hiện tại năng động mới có một thay đổi, không phải ngày mốt. Đây là điều rất quan trọng cần phải hiểu rõ. Chúng ta quá quen thuộc với một ý tưởng, và sau đó chúng ta cố gắng đưa ý tưởng đó vào hành động. Đầu tiên chúng ta lập công thức một cách hợp lý hay vô lý – đa phần là vô lý – một ý tưởng hay một lý tưởng và sau đó cố gắng đưa nó vào hành động. Vậy là có một khoảng trống giữa hành động và cái ý tưởng, một mâu thuẫn. Hành động là hiện tại đang sống, không phải cái ý tưởng. Công thức chỉ là một cố định; hiện tại năng động là hành động. Vì vậy nếu bạn nói, “Tôi phải được tự do khỏi xung đột”, điều đó trở thành một ý tưởng. Có một khoảng trống thời gian giữa ý tưởng và hành động, và bạn hy vọng rằng trong suốt khoảng trống thời gian đó hành động huyền bí, đặc trưng nào đó sẽ xảy ra mà sẽ tạo ra một thay đổi.

Nếu bạn cho phép thời gian, vậy thì không có thay đổi. Hiểu rõ là tức khắc, và bạn chỉ có thể hiểu rõ nếu bạn quan sát trọn vẹn, bằng toàn thân tâm của bạn – lắng nghe tiếng máy bay đó, lắng nghe tiếng ồn đó bằng toàn thân tâm của bạn, không diễn giải nó, không nói, “Đó là một máy bay” hay “Nó gây bực dọc làm sao” hay “Khi tôi muốn lắng nghe ông ta, máy bay đó lại bay qua”; vậy thì nó chỉ trở thành một xao lãng, một mâu thuẫn, và bạn bị lạc lối. Lắng nghe tiếng máy bay đó bằng toàn thân tâm của bạn là lắng nghe người nói bằng toàn thân tâm của bạn. Không có sự phân chia giữa hai. Có một phân chia chỉ khi nào bạn muốn tập trung vào điều gì đang được nói, và nó trở thành một kháng cự. Nếu bạn hoàn toàn chú ý, vậy thì bạn đang lắng nghe tiếng máy bay đó và bạn cũng đang lắng nghe người nói.

Trong cùng cách, nếu bạn hoàn toàn tỉnh thức được toàn cấu trúc, toàn chi tiết của xung đột, vậy thì bạn sẽ thấy rằng có một thay đổi tức khắc. Vậy thì bạn hoàn toàn vượt khỏi xung đột. Nhưng nếu bạn nói, “Ồ, liệu nó luôn luôn như thế, liệu tôi sẽ luôn luôn được tự do khỏi xung đột?” vậy thì bạn đang đặt ra một câu hỏi ngu xuẩn. Nó chỉ rõ rằng bạn không được tự do khỏi xung đột, rằng bạn không hiểu rõ bản chất của nó. Bạn chỉ muốn chinh phục nó và được an bình.

Một cái trí đã không hiểu rõ xung đột không bao giờ có thể an bình. Nó có thể tẩu thoát đến một ý tưởng, một từ ngữ được gọi là an bình, nhưng đó không là an bình. Muốn có an bình cần đến sự rõ ràng, và sự rõ ràng chỉ có thể hiện diện khi không có xung đột thuộc bất kỳ loại nào – mà không là tiến trình của tự-thôi miên. Chỉ cái trí mà đã hiểu rõ xung đột cùng tất cả bạo lực của nó, tất cả dốt nát của nó – và không-bạo lực là một hình thức của dốt nát bởi vì cái trí đã không hiểu rõ bạo lực – cái trí đó mới có thể tiến xa. Một cái trí đang ép buộc chính nó không-bạo lực là bạo lực. Hầu hết những vị thánh và những người thầy của bạn đầy bạo lực; họ không biết tánh rõ ràng của từ bi. Và chỉ cái trí từ bi mới có thể hiểu rõ cái vượt khỏi những từ ngữ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12833)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12758)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11802)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11784)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12401)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12452)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19897)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 12047)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 12070)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16947)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12732)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15150)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16197)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12948)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12311)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11973)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11976)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13218)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16566)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13288)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12570)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11906)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19924)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11229)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11322)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10460)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11154)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 11017)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10075)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11798)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
(Xem: 11689)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 12008)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11151)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11394)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12116)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12603)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10824)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 18044)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11759)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9996)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 11283)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 13232)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 16629)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 11915)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10976)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 11913)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 28867)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12429)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 53162)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35559)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 16118)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 12245)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12384)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 11460)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17258)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 15037)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 14660)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13920)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11777)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15106)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant