Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương hai mươi bốn

09 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 9683)
Chương hai mươi bốn

KINH KIM CANG CHƯ GIA

KIM CANG NGŨ THẬP TAM GIA

CHƯƠNG HAI MƯƠI BỐN

136.ÂM:

Tu Bồ Đề! Nhược tam thiên đại thiên thế giới trung, sở hữu chư Tu Di sơn vương, như thị đẳng thất bảo tụ, hữu nhơn trì dụng bố thí.

NGHĨA:

Này Tu Bồ Đề! Như trong tam thiên đại thiên thế giới. Có những núi chúa Tu Di có người góp cả bảy báu lại bằng như thế, dùng mà bố thí.

 

Giải : Sớ Sao  giải: Trong đại thiên thế giới có những núi chúa Tu Di trên cõi trời  Đao Lợi, dưới đến triền núi Côn Lôn, bằng cả bảy báu như núi ấy dùng đem mà bố thí thì đặng phước rất nhiều, không thể biết số đặng.

Hỏi : Lại còn có phước nào hơn phước ấy chăng?

Bài sau đáp lại.

Tăng Vi Sư giải: Phật bảo ông Tu Bồ Đề: Một cõi bốn châu thiên hạ thì có một núi Tu Di, cứ theo lời ấy thì ba ngàn đại thiên thế giới phải có đến cả trăm ức núi Tu Di.

Núi Tu Di là cao và đẹp hơn các núi, cho nên nói: Núi chúa cũng kêu là núi Diệu Cao.

137.ÂM:

Nhược nhơn dĩ thử Bát Nhã Ba la mật kinh nãi chí tứ cú kệ đẳng, thọ trì đọc tụng, vị tha nhơn thuyết, ư tiền phước đức bá phần bất cập nhứt, bá thiên vạn ức phần nãi chí toán số thí dụ, sở bất năng cập.

NGHĨA:

Bằng có người dùng kinh Bát nhã ba la mật này, nhẫn đến những tứ cú kệ, mà thọ trì đọc tụng và vì ông mà diễn thuyết, thì phước đức trước kia, chẳng bằng một phần trăm ngàn, muôn, ức cho đến cũng không bằng một phần thiệt nhỏ tột số không thế mà đếm tính ví dụ đặng.

 

Giải : Sớ Sao giải: Bằng dùng tánh Bát Nhã không trụ mà thọ trì Tứ cụ kệ  của chơn kinh và biên tả tụng niệm, rồi vì người mà diễn thuyết, hạng người như thế, đặng cái công đức không thế tính kể. Bởi cớ sao? Bởi tánh giác ngộ viên mãn, chẳng đoạn cái  hữu vi  mà chứng đặng lý vô vi, chẳng trừ vọng tưởng mà thấu lý  chơn thường. Tỏ cái nghĩa thứ nhứt; thì trong một niệm sẽ đặng phước  vô vi. Phước vô vi  ấy sánh tày hư không, không thể bàn nghĩ đặng. Cho nên trong kinh có nói: "Phước đức bố thí đồ trân báu bằng núi Tu Di trước kia, sánh với phước  vô vi  thì trăm ngàn muôn ức phần chẳng đặng một".

Vương Nhựt Hưu giải: Nói bố thí bảy báu bằng những núi chúa Tu Di mà không sánh đặng cái công thọ trì diễn thuyết, là phước của  thế gian  có khi phải hết, còn  xuất thế gian  càng tăng trưởng khôn cùng.

Trần Hùng giải: Phật nói phước đức trong tánh là tối thượng, bảy báu trong thân là ít có. Nếu dùng bảy báu nhiều bằng tam thiên thế giới, lớn bằng núi chúa Tu Di, đem ra mà bố thí thì phước đức tưởng chẳng ít hơn núi Tu Di. Còn có người trì tụng  chơn kinh Tứ cú kệ, rồi giảng giải lại cho người khác, ấy là tu cái công đức của tự tánh, tu bảy báu trong thân mình, sánh lại với cái phước bố thí nhiều báu đó thì xa nhau cả muôn triệu phần.

Ngũ Tổ  có nói: Tự tánh nếu mê phước nào cứu đặng.

Lục Tổ có nói: Cỡi thuyền đi tìm báu trọn cả đời, mà chẳng biết bảy báu của tự mình.

Lời của hai Phật nói đều vì những người chẳng lo tu thân tu tánh, chỉ lo thí báu đặng để cầu phước mà nói.

Nhan Bính  giải: Trong phần này là chỉ so sánh về việc phước đức khinh trọng.

Bằng có người bố thí bảy báu bằng núi chúa Tu Di đặng phước đức tuy nhiều, nhưng sánh với người trì kinh trăm phần không đặng một. Huống chi là người trì kinh lại tỏ đặng Tứ cú kệ  mà thọ trì đọc tụng, rồi vì người khác mà giảng giải?

 

Chẳng những là  tự lợi  mà lại  lợi tha, phước đức vô lượng như thế, có cả trăm ngàn muôn ức cho đến đếm tính hay là ví dụ cũng không đặng.

Cũng như ông Hàn Sơn nói:

 

Vật chi dám sánh tày,

Mà biểu làm sao thuyết.

 

Lý Văn Hội giải: Đem bảy báu bằng những núi chúa Tu Di trong tam thiên thế giớibố thí, tuy đặng phước đức vô lượng vô biên, nhưng cũng là bố thí trụ tướng, thì quyết không có ngày nào mà giải thoát  đặng. Còn thọ trì đọc tụng kinh này nhẫn đến những  Tứ cú kệ, thì đặng cái công đức tịnh diệu  không trụ tướng, hơn công đức trước kia trăm ngàn muôn bội.

Phó Đại Sĩ  giải:

Tụng: 

Thí báu dầu vô số,

Chỉ gây cái nghiệp nhân.

Chi bằng đừng chấp trước,

Đặng trở lại không châu.

Muốn chứng  Vô sanh nhẫn,

Phải trì giới  khẩu, thân.

Không nhơn không pháp cả,

Thong thả khỏi căn trần.

 

Xuyên Thiền sư giải: Cả ngàn dùi nhọn xới đất, không bằng xới một lưỡi cuốc trành.

Tụng:

 

Kỳ lân loan phụng chẳng chung bầy,

Chim "Trục phong" còn nhượng sức bay.

Châu báu bao nhiêu khôn xứng giá,

Ý thiên trường kiếm  có ai tày,

Kiền khôn khôn đựng chứa,

Lửa kiếp nào trèm trụa.

Lẫm lẫm oai quang chói Thái hư.

Trên trời dưới thế còn ai nữa.

Ôi! Cha chả!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2307)
“Tướng” là cái gì? “Tướng” chính là tướng trạng của sự vật biểu hiện nơi ngoài và tưởng tượng ở nơi trong tâm chúng ta.
(Xem: 33598)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6667)
Duy Thức Học được gọi là môn triết họcmôn học này nhằm khai triển tận cùng nguyên lý của vạn hữu vũ trụ nhân sanh mà vạn hữu vũ trụ nhân sanh...
(Xem: 6656)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 3920)
Tạo sao gọi là Phổ Môn? vì tự tính của mình phổ biến khắp hư không pháp giới, nên gọi Phổ Môn.
(Xem: 5184)
“Quán” là xem xét, “Thế Âm” là âm thanh của thế gian. Quán Thế Âmxem xét âm thanh thế gian, tiêu biểu cho lòng từ bi của Bồ-tát.
(Xem: 11477)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30515)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 8096)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12346)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 3337)
Một bài pháp được ban cho chư Tăng Ni ở International Mahayana Institute tại Boudhanath, Nepal, ngày 2 tháng 2, năm 1975. Nicholas Ribush hiệu đính.
(Xem: 35014)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 52391)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 13180)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 22040)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9733)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 3139)
"Niệm Phật" nghĩa là xưng danh hiệu - hay nhớ tưởng đến hình tướng, bản nguyện hay công đức của một đức Phật - như Phật Thích-ca hay Phật A-di-đà.
(Xem: 10484)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12917)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12890)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16353)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 13973)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14423)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9313)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11853)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11369)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 11613)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 12777)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 20822)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 17782)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 31976)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12107)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11941)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 4380)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, Luận Tập Bộ Toàn; Kinh văn số 1678. Pháp Hiền dịch ra chữ Hán. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12839)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10437)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 16528)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 11870)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14892)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 12122)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16956)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 12799)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 52381)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 12739)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 10006)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 14591)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20258)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13880)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15492)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17601)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 16893)
Nhập Trung Quán Luận (PDF) - Tổ Sư Nguyệt Xứng - Chuyển dịch: Thích Hạnh Tấn, TN Nhật Hạnh
(Xem: 13556)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 12569)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12129)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13356)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12618)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 25736)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 14635)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 28445)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 10381)
"Tánh Không" (còn gọi là tính-không) là một từ ngữ liên hệ đến sự giảng dạy chính yếu của mọi ngành Phật giáo, nhưng ý nghĩa thật sự của từ ngữ nầy thường bị hiểu lầm.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant