Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

06. Phẩm Thọ Ký

27 Tháng Tám 201100:00(Xem: 11090)
06. Phẩm Thọ Ký

Phẩm Thọ Ký Thứ Sáu


Hạng thượng căn thượng trí như Ngài Xá Lợi Phật được thọ ký sau khi nghe Đức Thế Tôn thuyết về hạnh nguyện đại từ đại bi của chư Phật, nhằm khai thị chúng sinh ngộ nhập Phật tri kiến, mà các Ngài đã dùng phương tiện một Phật thừa phân biệt nói thành ba.

Với thí dụ về nhà lửa, sự trình giảithí dụ về gã cùng tử của nhóm Ngài Đại Ca Diếp.

Đức Thế Tôn đã từ mẫn thuyết về dược thảo dụ, hạng thượng căn bậc trung đã lãnh hội một cách rốt ráo. Do vậy, Đức Thế Tôn đã trao ký cho từng vị trong nhóm Ngài Đại Ca Diếp này.

Vì sao có sự trao ký riêng cho từng vị như vậy?

Bởi con đường “Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác” là con đường tối hậu mà mỗi chúng sinh đều có thể đạt thành. Tuy nhiên phương tiện nào để cho kẻ “bộ hành” đạt đến mục đích ấy? Điều đó phải tùy theo căn cơ và sự phát khởi chủng tính của từng hạng loại mà cuộc hành trình ấy có thể chậm mau. Chính vì sự thấm nhuần pháp nhưsai biệt theo chủng loại, và cũng chính vì muốn đối trị quan niệm cho rằng quả vị Nhị thừa không thể nào đạt thành “Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác” mà có phẩm Thọ Ký này.

“Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn đã nói kệ xong, bảo các đại chúng và xướng lời thế này : Ma Ha Ca Diếp đệ tử của ta ở đời vị lai sẽ phụng thờ ba trăm muôn ức các Đức Phật Thế Tôn cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, rộng nói vô lượng đạo pháp của các Đức Phật, ở nơi thân rốt sau thành Phật, hiệu Quang Minh Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật Thế Tôn. Nước tên Quang Đức, cõi nước giàu vui, Bồ Tát trong nước đông vô lượng, Đức Ma Ha Ca Diếp phụng thờ 300 muôn ức Đức Phật và thân rốt sau thành Phật”.

Như vậy sự đạt thành Chánh đẳng Chánh giác của Ngài số kiếp bao nhiêu? Thọ ký như thế mà trong chúng hội vui mừng cho là đặng điều chưa từng có. Còn chúng ta hôm nay thường vấp phải hai quan niệm:

- Tu cách nào để mau chứng đắc.

- Tu từ từ ngày một, hai thời kinh, hoặc một đôi giờ ngồi thiền, niệm Phật, trì chú, là được rồi.

Quan niệm thứ nhất dễ bị lạc đường vì muốn nhanh nên ai chỉ đi đường nào mình cũng đi được, để rồi đi quanh quẩn nhọc nhằn mà chẳng tới đâu.

Quan niệm thứ hai buông trôi dật dờ theo ngày tháng, cuối cùng chẳng thấu rõ lý đạo nhiệm mầu. Cả hai quan niệm ấy đều dấy khởi từ vọng thức sai lầm.

Tại sao lại vấp phải sai lầm như thế?

Bởi vì hằng niệm chúng ta thường duyên theo cảnh, cảnh trần phủ mờ tri giác, trí tuệ không bừng sáng, muôn việc niệm niệm lao xao quay cuồng điên đảo. Từng phút từng giây tâm không an định. Kẻ thì nôn nóng, lo âu, sợ sệt, người thì dật dờ chầm chậm buông trôi. Lý đạo nhiệm mầu ở ngay trước mắt, không chậm, không mau, không thiện, không ác. Muốn đến Tây phương Cực lạc, chỉ một câu “Nam mô A Di Đà Phật” một câu niệm Phật ấy là nẻo tắt để ra ngoài tam giới, là ngọn đèn sáng soi hắc ám, là viên dũng tướng phá tan lũy thành. Một câu niệm Phật khảy móng tay đã đến cảnh giới Di Đà.

Niệm làm sao? Mau hay chậm, lớn hay nhỏ, hoặc niệm cho có chừng?

Niệm Di Đà là sáng soi muôn nẻo, dứt hết chướng duyên, không lay, không chuyển.

Như kẻ đang rớt xuống hố sâu ngàn thước mong cầu ra khỏi.

Như kẻ đứng trên đầu ngọn cây ngàn thước, thõng tay bước tới.

Đi, đứng, nằm, ngồi, tới, lui, động, tịnh, một ý nghĩ, một lời nói, một việc làm, không một điều nào là không phải “Nam mô A Di Đà Phật”.

Vì Phật là “giác”, niệm Phật là niệm giác, niệm nào cũng tỉnh giác. Chính như thế mới tỏ ngộ lý mầu của đạo, mà dứt trừ suy nghĩ chóng mau. Chính như thế mới tránh khỏi vọng thức sai lầm.

Ngài Ca Diếp đã hiển bày trí tuệ thâm sâu bước vào Phật đạo. Cho nên lời kinh đã ẩn dụ, ghi rằng Ngài đã: “Rộng nói vô lượng đạo pháp phụng thờ 300 muôn ức Đức Phật cúng dường, cung kính, t6n trọng, ngợi khen”.

Chính ánh ság trí tuệ kia đã chiếu tỏ muôn hạnh lành, bố thí, nhẫn nhục, tinh tấn... tương ưng cùng tánh thể mà “ở thân rốt sau đặng thành Phật hiệu là Quang Minh Như Lai”.

Sống với “giác tri thường chiếu” thì mới vượt khỏi sự ràng buộc của thức tâm về không gianthời gian.

Chúng ta đọc đến câu: “Phụng thờ 300 muôn ức Đức Phật”, đủ thấy rằng thức tâm khó mà liễu tri được điều này.

Sự vui mừng hớn hở của các Ngài đã chứng tỏ sự nhiệm mầu của Như Lai tạng. Ngay hiện tiền các Ngài đã trực nhận “bản tâm” vô thỉ vô chung thường hằng vi diệu, mà từ lâu các Ngài bị vọng thức đánh lừa.

Đến đây “Ngài Đại Mục Kiền Liên, Tu Bồ Đề, Đại Ca Chiên Diên thảy đều run sợ”. Không biết rằng mình có được Đức Thế Tôn trao ký cho chăng? Sự mong cầu chí thiết hằng niệm hằng niệm, các Ngài đã bước vào Phật đạo quanh bậc thang hữu hạn Nhị thừa. Giờ đây sắp khai phá những vi tế của vô minh, chủng tính Đại thừa đã đủ điều kiện đơm hoa kết trái.

Do vậy, Đức Thế Tôn tuyên thuyết với chúng hội rằng: “Tu Bồ Đề đây đến đời vị lai phụng thờ 300 muôn ức na do tha Đức Phật, cúng dường, tôn trọng, ngợi khen, thường tu hạnh thanh tịnh, đủ đạo Bồ Tát, thân rốt sau thành Phật, hiệu Danh Dướng Như Lai”.

Vì Ngài Tu Bồ Đề liễu triệt pháp không, biết vạn pháp đều hư huyễn, chỉ là danh tướng, nên đức hiệu đạt thành nơi quả Phật, dùng phương tiện mà có tên gọi là “Danh Tướng Như Lai”.

Kế tiếp Đức Thế Tôn lại bảo chúng Tỳ kheo, ta nói với các ông: “Đại Ca Chiên Diên này đời vị lai dùng các đồ mà cúng dường phụng thờ tám nghìn ức Phật cung kính, tôn trọng. Sau khi các Đức Phật diệt độ, ông đều dựng tháp miếu cao một nghìn do tuần, ngang rộng bằng 500 do tuần để cúng dường. Sau thời kỳ đó lại cúng dường hai muôn ức Đức Phật cũng như trước, đủ đạo Bồ Tát sẽ thành Phật hiệu Diêm Phù Na Đề Kim Quang Như Lai”.

Đến Ngài Mục Kiền Liên cũng như thế.

Tất cả các vị đại đệ tử Đức Thế Tôn đều được trao ký. Điều đó cho chúng ta hiểu được rằng nếu một khi đã thâm nhập lý đạo vững tin và sống hợp với lý đạo ấy, thì ta sẽ đạt thành Chánh Đẳng Chánh Giác.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2332)
“Tướng” là cái gì? “Tướng” chính là tướng trạng của sự vật biểu hiện nơi ngoài và tưởng tượng ở nơi trong tâm chúng ta.
(Xem: 33724)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6704)
Duy Thức Học được gọi là môn triết họcmôn học này nhằm khai triển tận cùng nguyên lý của vạn hữu vũ trụ nhân sanh mà vạn hữu vũ trụ nhân sanh...
(Xem: 6704)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 3935)
Tạo sao gọi là Phổ Môn? vì tự tính của mình phổ biến khắp hư không pháp giới, nên gọi Phổ Môn.
(Xem: 5201)
“Quán” là xem xét, “Thế Âm” là âm thanh của thế gian. Quán Thế Âmxem xét âm thanh thế gian, tiêu biểu cho lòng từ bi của Bồ-tát.
(Xem: 11559)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30571)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 8134)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12401)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 3359)
Một bài pháp được ban cho chư Tăng Ni ở International Mahayana Institute tại Boudhanath, Nepal, ngày 2 tháng 2, năm 1975. Nicholas Ribush hiệu đính.
(Xem: 35090)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 52458)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 13224)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 22093)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9769)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 3167)
"Niệm Phật" nghĩa là xưng danh hiệu - hay nhớ tưởng đến hình tướng, bản nguyện hay công đức của một đức Phật - như Phật Thích-ca hay Phật A-di-đà.
(Xem: 10538)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12966)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12951)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16397)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 14025)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14462)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9351)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11889)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11410)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 11670)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 12837)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 20871)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 17832)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32018)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12154)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11986)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 4403)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, Luận Tập Bộ Toàn; Kinh văn số 1678. Pháp Hiền dịch ra chữ Hán. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12888)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10470)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 16564)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 11914)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14940)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 12169)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 17022)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 12846)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 52521)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 12794)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 10054)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 14640)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20349)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13923)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15538)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17643)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 16958)
Nhập Trung Quán Luận (PDF) - Tổ Sư Nguyệt Xứng - Chuyển dịch: Thích Hạnh Tấn, TN Nhật Hạnh
(Xem: 13592)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 12613)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12166)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13394)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12662)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 25799)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 14683)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 28488)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 10399)
"Tánh Không" (còn gọi là tính-không) là một từ ngữ liên hệ đến sự giảng dạy chính yếu của mọi ngành Phật giáo, nhưng ý nghĩa thật sự của từ ngữ nầy thường bị hiểu lầm.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant