Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chú Thích

20 Tháng Năm 201000:00(Xem: 8146)
Chú Thích

KINH THẮNG MAN PHU NHÂN HỘI
TAM TẠNG BỒ ĐỀ LƯU CHÍ Dịch từ Phạn sang Hán 
Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích
Nhà Xuất Bản Tôn Giáo, Hà Nội 2006

 

CHÚ THÍCH

01 Lý do : Nhân duyên 

02 Bản khác là “Tin Phật chưa lâu”. Nghĩa là, tuy đời này đến với Phật pháp chưa bao lâu, nhưng đã có niềm tin đối với Phật. Văn của hai bản tuy thấy khác nhưng cùng một ý nghĩa

03 Thứ gì được lặp lui lặp tới thành thói quen rồi, khi đủ điều kiện nó sẽ hiện ra. Đây giải thích vì sao có các thần đồng về âm nhạc, toán học v.v… cũng giải thích vì sao có người nghe đến Phật và kinh thì ưa mà có người thì không, có người tin hiểu pháp Đại thừa, có người tin hiểu pháp Nguyên thủy … Đều do sự huân tập trước đây. 

04 Bản khác “Nhất định sẽ mau hiểu pháp, tâm được vô ngại”. 

05 Gặp được pháp và vị thiện tri thức mà mình đã từng có nhân duyên từ những đời trước. 

06 Nghiên cứu luận Đại Thừa Khởi Tín – phần HUÂN TẬP KHỞI TỊNH PHÁP CHẲNG DỨT - sẽ thấy 2 loại sở kiến báo và hóa thân này. 

07 Tuy đều là ngộ nhưng có thô và tế. Thô là chỉ cho niềm tin hoặc báo thân Phật. Tế là chỉ cho pháp thân Phật, tức tự tánh chân như của chính mình. Duy Thức Học gọi cảnh giới tự tánh chân như ấy là VÔ CHẤT TÁNH CẢNH.

08 “Vô tỷ, bất tư nghì” : Không có gì bì đọ, cũng chẳng thể nghĩ bàn. 

09 Đã giải thích rõ trong luận Đại Thừa Khởi Tín – dịch và giải Chân Hiền Tâm

10 Chỉ cho tâm phân biệt hiện nay của mình, luôn luôn có chủ thể và đối tượng để nhận thức. Đó chính là ý thức.

11 Bản Hán của ngài Bạt Đà La là “Nhiếp trì tất cả pháp”.

12 Bản Hán của ngài Bạt Đà La ghi là KÍNH LỄ.

13 Lời của HT Trụ trì thiền viện Thường Chiếu

14 Được biểu hiện ở địa vị vương phi hiện tại và qua 10 lời thệ nguyện cùng 3 đại nguyện sau của bà.

15 Nghiệm chính bản thân mình thì sẽ thấy điều này.

16 Theo Vãng Sanh Yếu Tập, nó là điều vui thứ 4 ở cõi Cực Lạc, gọi là “Ngũ diệu cảnh giới lạc” - Tự điển Phật Học Huệ Quang.

17 Bạch Ẩn Thiền Định Ca. 

18 Bạch Ẩn Thiền Định Ca.

19 Thói quen về suy nghĩ thì gọi là định kiến, về hành động gọi là tập nghiệp.

20 Với người đời, những gì thuận với tánh dục của mình là mình hạnh phúc. Song thuận theo cái dục ấy có khi đưa đến kết quả tốt, nhưng có khi dẫn đến kết quả rất xấu. Vì thế, khiến người được hạnh phúc sung sướng không hẳn đã là làm lợi ích cho người.

21 LY nghĩa là không có các thứ đó hay không dính với các thứ đó (Do nhận ra được thực tướng của chúng). Nhờ vậy, chư vị Bồ tát mới có phương tiện làm lợi ích cho chúng sanh

22 Vì chỉ mới trực nghiệm được phần THỂ. 

23 Vì đã đầy đủ cả thể, tướng và dụng.

24 Được nói đầy đủ trong luận Đại Thừa Khởi Tín.

25 Như pháp bố thí, muốn gọi là BỐ THÍ BA LA MẬT thì phải hội đủ 5 điều kiện : 1/ Cho mà không được nhiễm trước : Không vì thương mà cho, không dính mắc vào việc cho ấy v.v… 2/ Cho mà không luyến tiếc : Cho rồi thì thôi, không suy nghĩ đúng sai gì nữa. 3/ Cho mà không gây tội lỗi : Cho không theo kiểu quăng ra hay nặng nhẹ cho xứng với thứ mình cho, cũng không sanh tâm kiêu ngạo 4/ Cho mà không phân biệt : Không phải người mình thương mình mới cho, ghét thì miễn. Không phải người thân của tôi tôi mới cho. Cho là cho, như Phật tặng vợ tặng con của ngài. 5/ Cho mà hồi hướng chân chính : Tất cả công đức có được từ việc bố thí đều hồi hướng cho con đường Phật đạo, không phải để tìm quả báo sung sướngcõi trời và người.

26 So với cái thấy của phàm phu thì cái thấy của Nhị thừa được xếp vào loại chánh trí. Song so với trí tuệ của các vị Bồ tát đăng địa và chư Như Lai thì trí Nhị thừa vẫn bị cho là thiên lệch. Đây là mặt DUYÊN KHỞI của vạn pháp. Một khi đã nói đến tốt, xấu, chánh, tà thì phải nói đến DUYÊN. Còn tánh của pháp thì không có tính tốt, xấu, chánh, tà. Chỉ tùy duyên mà hiển tướng.

27 Còn gọi là duyên sanh. Pháp ở thế gian không có gì TỰ xuất hiện mà phải NHỜ duyên mới xuất hiện được nên gọi là duyên khởi. Như con gà không thể tự xuất hiện. Phải có các DUYÊN như gà mái, gà trống, lương thực, thời tiết v.v… mới có gà con. Vì pháp xuất hiện là nhờ duyên nên gọi là DUYÊN KHỞI, là do duyên mà khởi, do duyên mà thành. 

Trong các phần DUYÊN để tạo ra pháp mới đó, có một DUYÊN QUYẾT ĐỊNH và những DUYÊN PHỤ TRỢ. Như gà thì phải từ giống gà ra chứ không thể từ nước hay từ thóc. Duyên quyết định đó, gọi là NHÂN. Các duyên phụ còn lại gọi là DUYÊN. Chính hay phụ đều phải đầy đủ, pháp mới xuất hiện. Vì thế, ta có khái niệm NHÂN DUYÊN

Đã đủ nhân và duyên thì pháp chắc chắn thành hình. Pháp thành hình ấy gọi là QUẢ. Trường hợp này, tất cả duyên phụ và nhân chính đều gọi chung là NHÂN. Gọi chung là NHÂN vì do đối với QUẢ mà nói. Vì tất cả đều là thứ góp phần sinh ra QUẢ. Vì thế, ta có khái niệm NHÂN QUẢ. 3 thứ Nhân Quả, Nhân DuyênDuyên Khởi này tuy có 3 tên khác nhau nhưng vẫn có phần dung thông không khác. 

28 Đó là với những người đã đủ duyên. Những người mà duyên chưa đủ thì chưa chắc đã tin mà làm theo …

29 Thô là chỉ cho Nhân Duyên, Nhân Quả. Tế là chỉ cho chỗ “4 tướng đồng thời có, đều không tự dựng lập”. 4 tướng đây là chỉ cho 4 tướng sanh - trụ - dị – diệt của tâm. Của tâm mà cũng là của vạn pháp. Hội được chỗ Nhân Quả đồng thời này là hội được chỗ sanh ra thức tâm. Mới hay, vạn pháp chỉ là tướng của tâm, còn “Tâm chân thật chính là tánh của tất cả các pháp”. Muốn nắm được phần này thì nghiên cứu 9 tướng bất giác trong luận Đại Thừa Khởi Tín - Dịch và giải Chân Hiền Tâm. 

30 Như thấy nước trên sa mạc, không hiểu đó là ảo ảnh lại tranh tàn giết chóc để lấy bằng được nước đó.

31 Thế gian là có, là không, là không có không không, là vừa có vừa không. 

32 Với loại tập khí sâu dày, không đau khổ thấu xương thấu tủy không dễ gì bỏ được.

33 Không khác nhưng không phải một. Nhờ cái KHÔNG KHÁC này nên dù lực oai thần của Phật sẵn đó mà chỉ có bà mới nương vào đó giảng nói được, còn người khác thì không nương được.

34 Phương tiện là những thứ giúp trí vô sư hiển bày, không phải là thứ tạo ra trí vô sư ấy. Trí ấy sẵn đủ trong mọi chúng sanh, chỉ vì bị vô minh che lấp mà không sử dụng được nó. 

35 Không có bờ mé. 

36 Đây, nói về những người có chất lượng Đại thừa, không phải là người chỉ có danh xưng Đại thừa

37 Đây là nêu tạm phần thô để ta hình dung. Phần phiền não tương tục này còn phần tế. Dưới sẽ giải thích rõ. 

38 Luận Đại Thừa Khởi Tín - Dịch và giải Chân Hiền Tâm. 

39 Theo luận Đại Thừa Khởi Tín thì tâm bất tương ưng này phân thành 3. Do vô minh nghiệp tướng mà có cái thấy hư vọng và hiện cảnh giới hư vọng. Do vô minh mà có CĂN BẢN NGHIỆP BẤT TƯƠNG ƯNG NHIỄM, tương đương với phần VÔ MINH TRỤ ĐỊA nói đây. Cái thấy hư vọng ấy gọi là NĂNG KIẾN BẤT TƯƠNG ƯNG NHIỄM. Phần hiện cảnh giới hư vọng gọi là HIỆN SẮC BẤT TƯƠNG ƯNG NHIỄM. Qua được 3 cái nhiễm ấy thì thành Phật. Cái định của A La HánBích Chi Phật đều là cảnh giới của phần Năng Kiến, tùy thô tế mà có A La Hán hay Bích Chi Phật. Chỉ có Phật mới phá được phần Căn Bản

40 Ngoài Phật, tất cả đều gọi là chúng sanh.

41 Gặp những duyên phù hợp với tập khí của mình, như người nghiện rượu gặp lại rượu, người có chủng tử âm nhạc trong tàng thức gặp lại âm nhạc.

42 Phần này, Bồ tát Long Thọ giải thích rõ trong luận Đại Trí Độ. 

43 Tâm do bất giác mà thành thức. Bởi thức này không có bờ mé, thâu gom tất cả, lại là thứ ẩn tàng khó thấy, nên gọi là thức tạng.

44 THỦ còn gọi là PHIỀN NÃO. Nên Thành Duy Thức Luận nói nghiệp hữu lậu làm nhân, phiền não làm duyên, sinh ra thân phần đoạn của chúng sanh. Thành Duy Thức Học phân cái THỦ này thành 4 loại. 

45 Theo kinh Lăng Già Tâm Ấn, phải đến địa vị thứ 3 trở đi mới có ý sanh thân.

46 Luận Thành Duy Thức

47 Luận Thành Duy Thức trang 128 – Bản dịch của HT Thiện Siêu.

48 Phần tu hành này đã giải thích rõ trong luận Đại Thừa Khởi Tín.

49 Muốn biết chi tiết xin xem luận Đại Trí Độ tập II, trang 165. Bản dịch của HT Thiện Siêu.

50 Muốn biết chi tiết về phần này, xin xem luận Đại Trí Độ tập II trang 120. Bản dịch của HT Thiện Siêu. 

51 Luận Đại Thừa Khởi Tín

52 Như một khi nhận ra vàng giả thì dù sử dụng nó thế nào, mình cũng không còn bị nó làm lầm để đến nỗi tan thân mất mạng.

53 Nói theo nhà thiền là kiến tánh hay chứng được nhất niệm vô sanh.

54 Âm Hán : Sanh dị phân biệt

55 Muốn rõ hơn về phần này thì nghiên cứu luận Đại Thừa Khởi Tín hoặc Duy Thức Học.

56 Kinh Đại Niết Bàn, phần Tứ Y.

57 Vốn, nghĩa là bản chất của nó không có sanh tử

58 Ngài Hiền Thủ nói “Nay Tịnh độ của Nhất thừa tuy chỉ có ở Phật mà chẳng xả thân nghiệp chúng sanh cùng các pháp. Tuy chẳng xả mà chẳng đồng phần hạn. Tuy chẳng đồng mà tức là đó. Giống như trong mộng mà thấy các vật thế gian, chỉ là giác tâm lượng. Tuy là giác tâm lượng mà không như mộng kế. Tuy chẳng như mộng kế mà chẳng bỏ các pháp được thấy trong mộng”. 

59 Muốn rõ phần này thì nghiên cứu luận Đại Thừa Khởi Tín

60 Không lìa đây muốn diễn tả tình trạng như nước và sóng. Do duyên gió mà nước biến thành sóng, tướng nước không phải là tướng sóng nhưng bản chất của sóng vẫn là nước. Không phải KHÔNG LÌA là tham sân si không bao giờ hết. Hết duyên gió thì sóng không còn. Hết duyên vô minh thì tham sân si không còn. Chỉ là một Như Lai Tạng thanh tịnh

61 “Thấu suốt về cái LÝ của mọi sự mọi vật” là muốn nói đến tính chi phối bao quát của nó mà gọi là LÝ, không hẳn là nói đến chỗ rốt ráo

62 Thủ Lăng Nghiêm Trực Chỉ của thiền sư Hàm Thị. Bản dịch của TT Phước Hảo. Phần thức ấm thuộc Ngũ ấm ma

63 Đây là nói đến sự trực nghiệm của tâm, không phải là niềm tin hay ngộ theo kiểu trong đầu bực ra các kiến giải.

64 Dịch thuận theo văn là “Mà tướng ngã nhân chẳng thể đến được, còn có sở liễu”.

65如來藏者。身見有情。顛倒有情。空見有情。非所行境 

66 Kinh Niết Bàn nói Phật tánh thường, là do đối trị cái chấp vô thường của hàng Thanh văn. Vì có chấp mới lập kinh ra để phá cái chấp ấy. 

67 Với người thường thì khó cảm nhận chỗ này. Nhưng ai từng hàng phục vọng tâm sẽ thấy rất rõ. Như người từng miên mật với pháp Biết Vọng của Hòa thượng Thanh Từ chẳng hạn. Sẽ thấy rõ cái đi và đến không vướng bận như mây trên hư không, như bụi lấm tấm trong hư không này.

68 Trích trong Bạch Ẩn Thiền Định Ca. 說空性義隱覆真實


KINH THẮNG MAN PHU NHÂN HỘI
Chân Hiền Tâm dịch & giải
NHÀ XUẤT BẢN TÔN GIÁO
Nhà số 4 – lô 1 – Trần Duy Hưng – Hà Nội
ĐT : 04-5566701 – Fax : (04).5566702
Chịu trách nhiệm xuất bản
NGUYỄN THANH XUÂN
Biên tập : Đỗ Thị Quỳnh
 Trình bày : Thủy Tiên
Bìa : 
Đối tác liên kết : Thủy Tiên ĐT : 8443138
In 1000 bản, khổ 14,5cmx20,5cm tại Xí nghiệp In Số 5, Q.5, Tp.HCM. Số xuất bản 145-2005/CXB/02-94/T6. In xong và nộp lưu chiểu quí I năm 2006. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2300)
“Tướng” là cái gì? “Tướng” chính là tướng trạng của sự vật biểu hiện nơi ngoài và tưởng tượng ở nơi trong tâm chúng ta.
(Xem: 33503)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6649)
Duy Thức Học được gọi là môn triết họcmôn học này nhằm khai triển tận cùng nguyên lý của vạn hữu vũ trụ nhân sanh mà vạn hữu vũ trụ nhân sanh...
(Xem: 6636)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 3915)
Tạo sao gọi là Phổ Môn? vì tự tính của mình phổ biến khắp hư không pháp giới, nên gọi Phổ Môn.
(Xem: 5174)
“Quán” là xem xét, “Thế Âm” là âm thanh của thế gian. Quán Thế Âmxem xét âm thanh thế gian, tiêu biểu cho lòng từ bi của Bồ-tát.
(Xem: 11424)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30485)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 8055)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12307)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 3329)
Một bài pháp được ban cho chư Tăng Ni ở International Mahayana Institute tại Boudhanath, Nepal, ngày 2 tháng 2, năm 1975. Nicholas Ribush hiệu đính.
(Xem: 34960)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 52359)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 13152)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 21963)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9698)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 3132)
"Niệm Phật" nghĩa là xưng danh hiệu - hay nhớ tưởng đến hình tướng, bản nguyện hay công đức của một đức Phật - như Phật Thích-ca hay Phật A-di-đà.
(Xem: 10464)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12884)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12865)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16324)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 13938)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14389)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9285)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11819)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11345)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 11594)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 12740)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 20800)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 17751)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 31943)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12091)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11899)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 4369)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, Luận Tập Bộ Toàn; Kinh văn số 1678. Pháp Hiền dịch ra chữ Hán. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12821)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10409)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 16486)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 11858)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14872)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 12088)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16938)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 12787)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 52325)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 12719)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 9981)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 14563)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20230)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13859)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15461)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17566)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 16865)
Nhập Trung Quán Luận (PDF) - Tổ Sư Nguyệt Xứng - Chuyển dịch: Thích Hạnh Tấn, TN Nhật Hạnh
(Xem: 13543)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 12547)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12116)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13338)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12602)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 25694)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 14616)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 28415)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 10361)
"Tánh Không" (còn gọi là tính-không) là một từ ngữ liên hệ đến sự giảng dạy chính yếu của mọi ngành Phật giáo, nhưng ý nghĩa thật sự của từ ngữ nầy thường bị hiểu lầm.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant