Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tổng Kết

08 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 7165)
Tổng Kết

ĐƯỜNG TU KHÔNG HAI
KINH DUY MA CẬT GIẢNG LUẬN
Minh Tâm
Nhà Xuất Bản Thanh Văn - USA 1991

 

TỔNG KẾT

Đức Phật ra đời chỉ vì nguyện lớn hóa độ chúng sinh đưa vào trí huệ lớn lao vô thượng, đồng với Phật không khác. Muốn vậy Đức Thế Tôn chỉ dẫn cho chúng sinh biết con đường chân chánh mà đi theo, thẳng tới mục đích. Chư Phật ra đời chỉ vì một đại sự nhân duyên là mở bày và chỉ rõ cho chúng sinh tỏ ngộ và chứng nhập Phật Tri Kiến hay Chân Lý (Khai, Thị, Ngộ, Nhập), khi hoàn mãn thì đại sự nhân duyên ra đời của Phật mới xong. Phật dùng nhiều phương tiện tùy căn cơ giáo hóa khiến cho mọi loài chúng sinh đều được lợi ích

Kinh Duy Ma Cật thuộc thời Phương Đẳng, là nhịp cầu nối tiếp giữa tư tưởng các bộ phái Nam Tông bước sang Đại Thừa Bắc Tông, đưa người tu hạnh Thanh Văn sang con đường lớn của Bồ Tát và Phật. Kinh này thuộc quyền giáo, dùng các thí dụ để đưa ra Chân Lý tuyệt vời mà danh từ ngôn ngữ không diễn tả nỗi, Kinh này nói cho hàng Bồ Tát và các đệ tử đã phát tâm Bồ Đề nghe, tả rõ cảnh giới cao siêu mà tri thức phàm phu khó tin khó hiểu. 

Mười bốn phẩm của Kinh Duy Ma Cật được ví như mười bốn bông hoa tươi thắm nhiều mầu nhiều hương thơm khác nhau, mỗi phẩm luận giải một vấn đề đặc biệt. Nhưng nếu để rời rạc thì e khó nắm được ý chính của Kinh muốn nhấn mạnh đến việc gì nên chúng tôi thêm phần tổng kết để tóm lược và kết hợp các tư tưởng lại thành nội dung chủ yếu của bộ Kinh này, ví như dùng một sợi dây để kết mười bốn bông hoa thành một tràng hoa để trang nghiêm đạo tràng

Sau đây là tóm tắt cương yếu từng phẩm: 

Phẩm I.- Sự thấy biết của chúng sinh nông cạn sai lầm, không đúng đắn. Cõi Ta Bà vẫn thanh tịnhchúng sinh không thấy đó thôi; cứ tưởng là xấu ác. Tất cả do Tâm tạo, vậy cần phải đổi lại cái thấy xét lại quan niệm

Phẩm II.- Đề cao phương tiện đưa đến cứu cánh. Ông Duy Ma Cật dùng phương tiện thị hiện làm Trưởng Giả ở Thành Ty Xá Li để độ chúng sinh, thị hiện thân có bệnh để độ hàng Thanh Văn

Phẩm III.- Các Thanh Văn công nhận sự thua kém của mình đối với ông Duy Ma Cật

Phẩm IV.- Các Bồ Tát tu theo Duy Thức hoặc mới phát tâm đều không bì kịp trí huệ của ông Duy Ma Cật

Từ phẩm I đến phẩm IV là phần Khai Phật Tri Kiến, mở bày Chân Lý, giới thiệu ông Duy Ma Cậttrí huệ siêu việt hơn các hàng đại đệ tử Thanh Văn và các hàng Bồ Tát mới phát tâm

Phẩm V.- Rất quan trọng. Hai loại Trí gặp nhau, Căn Bản Trí hoặc Vô Sư Trí của ông Duy Ma Cật đối thoại với Hậu Đắc Trí hoặc Hữu Sư Trí của Ngài Văn Thù Sư Lợi. Căn Bản Trí thù thắng hơn Hậu Đắc Trí

Phẩm VI.- Hàng Thanh Văn phải quy y với Tu Di Đăng Vương Như Lai nghĩa là phát huy trí huệ, thắp sáng ngọn đèn huệ sẵn có trong tâm thì mới hiểu được giáo lý Đại Thừa, vì đó là pháp không thể nghĩ bàn, bỏ tướng để nhập Tánh. 

Phẩm VII.- Phá chấp ngã chấp pháp, không trụ vào đâu. 

Phẩm VIII.- Bề ngoài là nghịch tướng, bề trong là Phật Đạo, nhưng không còn phân biệt, tất cả là một. 

Từ phẩm V đến phẩm VIII là phần Thị Phật Tri Kiến, chỉ thẳng trí huệ vô phân biệt, vô chấp. 

Phẩm IX.- Các Bồ Tát đều đã hiểu và thực hànhBất Nhị, mỗi vị dùng một đường lối tu hành khác nhau nhưng tựu trung đều nhập vào Pháp Môn Không Hai. Ngài văn Thù vốn đã thâm nhập và hiểu lý Bất Nhị lìa danh từ ngôn ngữ, nhưng vẩn còn nói ra là xa lìa. Đến ông Duy Ma Cật im lặng mới thật là nhập Pháp Môn Không Hai
Phẩm IX này là phần Ngộ Phật Tri Kiến, các Bồ Tát trình bày sự tỏ ngộ của mình, duy có ông Duy Ma Cật im lặng vì nói không được sự tỏ ngộ của mình, bặt văn tự ngữ ngôn tâm duyên

Phẩm X.- Đừng dùng sự hiểu biết nông cạn của Thanh Vănphán đoán hành động của Bồ Tát; Thể Tánh bao dung tất cả rnọi tướng trạng, chẳng còn phân biệt lớn nhỏ nhiều ít. 

Phẩm XI.- Thần lực tự tại của Bồ Tát, hàng Thanh Văn không thể lấy ý mà tính được, không phải suy nghĩ mà lường được. Đừng chấp tướng. Cần phải tu Không, Vô Tướng, Vô Tác

Phẩm XII.- Trở về Bản Thể Bất Động, từ đó phát sinh các sắc tướng, đó là Chân Không phát sinh Diệu Hữu

Phẩm XIII.- Pháp cúng dường hơn tài cúng dường, đề cao sự quan trọng của tinh thần hơn vật chất

Phẩm XIV.- Đừng khinh người mới học mới tu. Đừng chấp tướng phân biệt

Từ phẩm X đến phẩm XIV là phần Nhập Phật Tri Kiến. Sau khi nói về Lý, Bản Thể tuyệt đối bất khả tư nghị, Đức Phật trở về Sự, chỉ dạy đường lối tu hành thực tiễn để vào Pháp Môn Không Hai

Chủ yếu của Bộ Kinh Duy Ma Cật là đề cao Lý Bất Nhị, vào Pháp Môn Không Hai. Trong thời kỳ Phương Đẳng chuẩn bị tư tưởng sắp bước sang Đại Thừa, một số các đệ tử Phật tu hạnh Thanh Văn, thỏa mãn với những thành quả đạt được như A La Hán, A Na Hàm, Tư Đà Hàm, Tu Đà Hoàn nhờ thực hành pháp Bốn Diệu Đế, được ra khỏi sinh tử luân hồi. Các vị đó thấy có pháp môn tu, có quả vị chứng, tự giác tự lợi, cho là đủ rồi, không mong cầu tiến tu cao hơn nữa. Vả lại, các vị Thanh Văn thấy tu Bồ Tát Đạo rất khó khăn cực nhọc, chúng sinh vô biên, khổ đau vô tận, phiền não vô cùng, cõi Ta Bà xấu ác nhơ uế, tâm địa chúng sinh cang cường khó dạy khó bảo, Địa Ngục khổ vô gián, Niết Bàn là cõi an vui, nên các Ngài không kham khó nhọc lăn mình vào cõi trần để cứu độ chúng sinh, mà chỉ muốn trầm không thú tịch, một mình an hưởng Hữu Dư Y Niết Bàn, không có lòng mong cầu quả vị Phật. 

Đức Thế Tôn thường thống trách các vị Thanh Văn, gọi họ là mầm thối giống nát, tro tàn lửa tắt, chẳng còn giúp ích gì cho ai, chỉ chuyên tự độ mà quên độ tha, chỉ chấp tướng trạng mà quên Pháp Tánh Bản Thể chung cùng của vạn vật. Tất cả chúng sinh đều khới sinh từ một nguồn gốc chung có liên hệ mật thiết với nhau, ràng buộc chặt chẻ với nhau không thể chia cắt, bứt dây động rừng. Đức Phật muốn đưa các vị Thanh Văn lên hàng Bồ Tát, muốn cho họ nếm mùi vị thơm ngon của Đại Thừa, nên nói ra một số kinh điền thuộc loại Phương Đẳng, dẫn từ tư tưởng Tiểu Thừa sang Đại Thừa, trong đó có Kinh Duy Ma Cật này. 

Mặt khác, trước đây các Phật Tử tại gia cam phận thấp hèn, chỉ được hướng dẫn quy y cúng dường Tam Bảo, cầu phước báo Trời người, không dám mong được giác ngộgiải thoát. Nay nhờ Kinh này chỉ cho con đường hành Bồ Tát Đạo, đường tu này chung cho cả hai giới xuất giatại gia. Giới xuất gia có đường tu giải thoátlẽ dĩ nhiên, cắt bỏ luyến ái, lìa nhà nhập chúng, trên cầu Phật Đạo, dưới độ chúng sinh. Giới tại gia từ trước đến nay không dám mơ tưởng mình cũng có đường, nay được Phật khai thị cho con đường giải thoát, mở sáng đôi mắt đui mù, thấy con đường chạy song song với đường của giới xuất gia, thật ra chỉ có một con đường mà thôi, một con đường duy nhất đưa đến Phật quả, đó là Nhất Thừa Phật Đạo, ai tu nấy chứng, ai đi nấy đến, không phân biệt xuất gia hay tại gia

Trong bộ kinh này, Đức Phật đề cao Lý Bất Nhị, vào Pháp Môn Không Hai. Tại sao chẳng gọi là một mà lại gọi là Không Hai? Vì nếu nói một là ngầm có hai, nói Không Hai rõ ràng hơn, không ám chỉ một con số nào khác. Muốn vào Pháp Môn Không Hai thì cần phải bỏ Tướng nhập Tánh, bỏ phân biệt đối đãithâm nhập huyền nghĩa của Kinh, ly ngôn ngữ, rời tâm duyên để chứng nhập Chân Như. Vào Pháp Môn Không Hai thì ly ngôn tuyệt tướng, chỉ còn một sự cảm thông trong im lặng tuyệt vời. Đây là chỗ ông Duy Ma Cật không nói, Ngài Ca Diếp mỉm cười. Vẫn biết lời nói hay chữ viết không diễn tả được Chân Lý tuyệt đối nhưng nếu không dùng lời nói hay chữ viết thì làm cách nào chỉ bày cho người khác hiểu, làm sao dạy dỗ khiến người khác tuân theotu hành, cùng hưởng Đạo Vị. Do đó Đức Phật phải phương tiện hạ thấp giáo lý của Ngài, dùng nhiều thí dụ để dắt dẫn các đệ tử, rồi sau này chư Phật Tử phải tự lực tự giác rời bỏ phương tiện để thể nhập cứu cánh Chân Như, y như qua sông thì phải bỏ bè lại. 

Kinh chưa phải Chân Lý, nhưng Kinh đưa đến Chân Lý, ví như ngón tay chỉ mặt trăng, thấy mặt trăng rồi thì không cần ngón tay, chứng nhập Chân Lý rồi thì lìa kinh, im lặng

Đạo Phật chú trọng thực hành, không phải lý thuyết suông. Học kinh xong rồi thì phải mang những điều hay lẽ phải trong kinh ra áp dụng vào cuộc đời, hướng dẫn chúng sinh tu sửa thân tâm, tự giác giác tha, cùng thành Phật Đạo. Tôn chỉ của Kinh này là AI TU CŨNG ĐƯỢC, Ở ĐÂU TU CŨNG ĐƯỢC, chỉ cần chuyển Tâm là cảnh chuyển theo, cảnh nào tu cũng được, thuận cảnh hoặc nghịch cảnh đều tu được, chỉ cần tu tâm, vì TÂM TỊNH QUỐC ĐỘ TỊNH. Phật Pháp không cố định mà uyển chuyển thay đổi, tùy duyên áp dụng vào các trường hợp khác nhau, nhưng mục đích thì bất biến, đó là phát huy trí huệ sẵn có, quay về Tâm thanh tịnh sáng suốt để nắm tay tất cả chúng sinh, cùng tiến bước tới chỗ giác ngộgiải thoát./.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2302)
“Tướng” là cái gì? “Tướng” chính là tướng trạng của sự vật biểu hiện nơi ngoài và tưởng tượng ở nơi trong tâm chúng ta.
(Xem: 33541)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6652)
Duy Thức Học được gọi là môn triết họcmôn học này nhằm khai triển tận cùng nguyên lý của vạn hữu vũ trụ nhân sanh mà vạn hữu vũ trụ nhân sanh...
(Xem: 6644)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 3920)
Tạo sao gọi là Phổ Môn? vì tự tính của mình phổ biến khắp hư không pháp giới, nên gọi Phổ Môn.
(Xem: 5179)
“Quán” là xem xét, “Thế Âm” là âm thanh của thế gian. Quán Thế Âmxem xét âm thanh thế gian, tiêu biểu cho lòng từ bi của Bồ-tát.
(Xem: 11456)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30503)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 8080)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12328)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 3331)
Một bài pháp được ban cho chư Tăng Ni ở International Mahayana Institute tại Boudhanath, Nepal, ngày 2 tháng 2, năm 1975. Nicholas Ribush hiệu đính.
(Xem: 34982)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 52370)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 13172)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 21988)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9717)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 3136)
"Niệm Phật" nghĩa là xưng danh hiệu - hay nhớ tưởng đến hình tướng, bản nguyện hay công đức của một đức Phật - như Phật Thích-ca hay Phật A-di-đà.
(Xem: 10478)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12903)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12881)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16341)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 13960)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14409)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9303)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11838)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11361)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 11605)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 12763)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 20815)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 17775)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 31968)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12104)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11925)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 4379)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, Luận Tập Bộ Toàn; Kinh văn số 1678. Pháp Hiền dịch ra chữ Hán. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12830)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10424)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 16517)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 11866)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14879)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 12117)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16947)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 12796)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 52350)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 12733)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 9999)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 14578)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20243)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13874)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15487)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17590)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 16881)
Nhập Trung Quán Luận (PDF) - Tổ Sư Nguyệt Xứng - Chuyển dịch: Thích Hạnh Tấn, TN Nhật Hạnh
(Xem: 13553)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 12558)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12122)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13346)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12613)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 25716)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 14629)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 28433)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 10363)
"Tánh Không" (còn gọi là tính-không) là một từ ngữ liên hệ đến sự giảng dạy chính yếu của mọi ngành Phật giáo, nhưng ý nghĩa thật sự của từ ngữ nầy thường bị hiểu lầm.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant