Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bài Thứ 8: Chương Biện Âm

23 Tháng Bảy 201000:00(Xem: 7399)
Bài Thứ 8: Chương Biện Âm

PHẬT HỌC PHỔ THÔNG
Hòa Thượng Thích Thiện Hoa
Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh Ấn Hành 1997
KHOÁ THỨ 8: KINH VIÊN GIÁC 

BÀI THỨ TÁM

1. Ngài Biện Âm Bồ tát hỏi Phật
2. Phật khen ngài Biện Âm Bồ tát
3. Phật dạy 25 pháp tu (25 luân)
4. Tóm lại
5. Phật nói bài kệ tóm lại các nghĩa trên

 

VIII. CHƯƠNG BIỆN ÂM

1. Ngài Biện Âm bồ tát hỏi Phật

Khi đó NGài Biện Âm bồ tát ở trong đại chúng đứng dậy đi quanh bên hữu của Phật ba vòng, rồi lạy Phật và quỳ thẳng bạch rằng:

-Bạch đức Đại bi Thế Tôn, vừa rồi Ngài dạy ba pháp môn tu hành như thế, rất là hy hữu.

Nhưng các vị Bồ tát, khi muốn nhập Viên giác, đối với ba pháp môn phương tiện này, có mấy cách tu tập?

Cúi xin đức Thế Tôn, vì cả đại chúng hiện tạichúng sanh đời sau, phương tiện mở bày, khiến cho chúng con đều ngộ được tướng chơn thật (viên giác).

Thư thỉnh như vậy 3 lần, rồi Ngài Biện Âm kính cẩn lạy Phật và trở lui.

 

LƯỢC GIẢI

Vừa rồi ở chương Oai Đức Tự tại, Phật dạy có 3 pháp môn tu là “Chỉ, quán và chỉ quán song tu”, rất rõ ràng.

Đến chương này Ngài Biện Âm Bồ tát lại hỏi thêm ba pháp môn phương tiện tren, có mấy cách tu. Nghĩa là mỗi người chỉ tu một pháp hay cả ba pháp? Ba pháp này tu đồng thời hay có trước sau? Phải theo thứ lớp tu hay vượt qua thứ lớp?

 

2. Phật khen Ngài Biên Âm Bồ tát

Khi đó đức Thế Tôn khen ngài Biện Âm bồ tát và dạy rằng:

-Này Thiện nam, quý lắm! ông vì đại chúng hiện tạichúng sanh đời sau, thưa hỏi Như Lai có bao nhiêu cách tu tập. ông nên chăm chú nghe, Như Lai sẽ vì các ông mà chỉ giáo.

Khi đó NGài Biện Âm bồ tát, cùng với Đại chúng dồng yên lặng và hoan hỷ nghe lời Phật dạy bảo.

 

3. Phật dạy 25 pháp tu

-Này Thiện nam! Tánh Viên giác thanh tịnh của tất cả Như Lai, vốn không có pháp bị tu và người tu tập. Song vì các vị Bồ tát hiện tạichúng sanh đời sau, chưa nhập được Viên giác, còn phải phương tiện dùng huyễn pháp để tu tập; vì thế nên chia ra có 25 cách tu như sau:

 

LƯỢC GIẢI

Đại ý đoạn này nói: Xứng về tánh “Viên giác thanh tịnh” thì không có người tu và pháp để tu. Song vì chúng sanh chưa giác ngộ, còn phải dùng phương tiện tu tập, vì thế nên Phật chia ra có 25 pháp môn tu.

Tuy chia ra 25 pháp môn tu, nhưng vẫn y theo 3 pháp là “Chỉ quán và Chỉ quán đồng thời tu” mà Phật đã dạy ở chương trước. Có khi tu chung hai pháp, ba pháp, mà có lúc lại riêng từng pháp một, hoặc tu trước, hoặc tu sau, tùy theo trình độ của chúng sanh xây qua trở lại thành 25 pháp; song tu pháp nào cũng đều chứng nhập được viên giác

 

1. Riêng tu một pháp “xa ma tha” (tu định)

-Này Thiện nam! Nếu có Bồ tát giữ tâm rất vắng lặng, nhờ sức vắng lặng này, mà đoạn các phiền não, dược vĩnh viễn thành tựu rốt ráo tánh Viên giác, thì vị Bồ tát ấy lúc bấy giờ chẳng rời chỗ ngồi mà vẫn nhập được Niết bàn, Bồ tát tu như thế, gọi là chỉ tu một pháp “Xa ma tha” (tu chỉ”.

 

LƯỢC GIẢI

Đoạn này nói Bồ tát riêng tu một pháp “Chỉ”. Bồ tát giữ gìn tâm trạng rất tinh tịch, nên phiền não không sanh, đó là tu pháp “Chỉ”. Nhờ thế mà Bồ tát được rốt ráo thành tựu tánh “Viên giác”, đặng quả Niết bàn của Chư Phật.

 

2. Riêng tu một pháp “Tam ma bát đề” (tu huệ)

-Này Thiện nam! Nếu có Bồ tát chỉ tu pháp quán “như huyễn”, và nhờ sức Phật gia hộ, nên Bồ tát ấy biến hóa ra được thế giới, thì mặc dù Bồ tát làm các diệu dụng độ sanh (tu quán), đầy đủ công hạnh mầu nhiệm của Bồ tát; nhưng vẫn không mất niệm tịch tịnh (Định) và Huệ yên lặng (Huệ) của Đà La Ni (Viên giác). Bồ tát tu như thế, gọi là riêng tu một pháp “Tam ma bát đề”.

 

LƯỢC GIẢI

Đoạn này nói Bồ tát riêng tu một pháp “Quán”. Bồ tát khi tu pháp quán như huyễn, và nhờ thần lực của Phật, nên biến hiện thế giới uế độ thành Tịnh độ, biến địa ngục trở thành Thiên cung, vì các pháp đều như huyễn như hóa. Tu như t hế là tu “Quán”. Bồ tát mặc dù làm đủ công hạnh lợi tha, mà không rời bản t hể thường tịch (Định) và thường chiếu (huệ) của tánh viên giác.

Chữ “Đà la ni” ở chương này, đồng với chữ “đà la ni” trong chương Văn t hù, tức là biệt danh của tánh Viên giác, như trong chương VĂn thù chép: “Có pháp Đại Đà La Ni gọi là Viên giác”

 

3. Riêng tu pháp “Thiền na” (định, huệ đồng tu)

-Này Thiện nam! Nếu có Bồ tát chỉ diệt các huyễn, không chấp thủ tác dụng, riêng đoạn các phiền não, khi phiền não đoạn hết rồi, thì chứng được thật tướng, Bồ tát tu như thế, gọi là riêng tu pháp “Thiền na” (chỉ, Quán song tu).

 

LƯỢC GIẢI

Đoạn này nói Bồ tát đồng thời tu các “chỉ” và “quán”. Bồ tát “chỉ diệc các huyễn”, tức là không dùng “Ta ma bát đề” như đã nói ở trước (không tu quán như huyễn); “không chấp thủ tác dụng” tức là không tu “xa ma tha” như dã nói ở trước (không tu chỉ); “riêng đoạn phiền não” tức là tu “Thiền na” (Chỉ, quán song tu). Hi đoạn hết phiền não thì Bồ tát chứng đặng thật tướng, tức là tu “thiền na” mà nhập viên giác tánh.

 

4. Trước tu “định” sau tu “huệ”

-Này Thiện nam! Nếu có Bồ tát trước giữ gìn nơi rất tịnh (chỉ) sau dung tịnh huệ (huệ yên tịnh) chiếu soi các pháp như huyễn như hóa, lúc bấy giờ khởi ra hạnh Bồ tátBồ tát tu như htế, gọi là trước tu “Xa ma tha” (chỉ) sau tu “Tam ma bát đề” (Quán)

 

LƯỢC GIẢI

Đoạn này nói Bồ tát trước tu “Chỉ” sau tu “Quán” - Bồ tát trước giữ tâm rất tịnh là tu “chỉ”, rồi dùng trí huệ yên tịnh mà chiếu soi các pháp như huyễn là tu “Quán”. Lúc bấy giờ Bồ tát trên thì cầu đạo Phật, dưới hóa độ chúng sanh, đó là thực hành Bồ tát hạnh.

 

5. Trước tu “định” sau “định,huệ đồng thời tu”

-Này Thiện nam! Nếu có Bồ tát, dùng, trí huệ yên tịnh, chứng đặng htể tánh rất tịnh, rôì đoạn các phiền não, vĩnh viễn ra khỏi sanh tử. Bồ tát tu như thế, gọi là trước tu “xa ma tha” (chỉ) sau tu “thiền na” (chỉ, quán song tu)

 

LƯỢC GIẢI

Đoạn này nói Bồ tát trước tu “Chỉ sau “chỉ, Quán song tu” - Bồ tát dùng trí huệ yên tịnh, chứng được tánh rất tịnh là tu “chỉ”, đoạn hết các phiền não, vĩnh viễn ra khỏi sanh tử luân hồi là “chỉ, quán song tu”.

 

6. Trước tu “Định”, thứ tu “Huệ, sau “Định, Huệ song tu”

-Này Thiện nam! Nếu có bồ tát, dùng trí huệ thanh tịnh, lấy sức huyễn hóa biến hiện ra các hình thức, để hóa độ chúng sanh; sau đoạn các phiền não, rồi nhập vào cảnh giới tịch diệtBồ tát tu như thế, gọi là trước tu “xa ma tha” (chỉ) thứ tu “tam ma bát đề” (quán) sau tu “Thiền na” (Chỉ, quán song tu).

 

LƯỢC GIẢI

Đoạn này nói Bồ tát trướ ctu “chỉ”, thứ tu (quán), sau “chỉ, quán song tu”. -Bồ tát dùng trí huệ thanh tịnh là tu “chỉ”, lấy sức như huyễn mà biến hiện ra nhiều hình thức để độ chúng sanh là tu “Quán”. Sau Bồ tát đoạn phiền não rồi vào tịch diệt là “chỉ, quán song tu”.

 

7. Trước tu “Định” thứ “Định, Huệ song tu”, sau tu “huệ”

-Này Thiện nam! Nếu có Bồ tát dùng sức rất tịnh, đoạn các phiền não rồi, sau khởi cái hạnh thanh tịnh mầu nhiệm của Bồ tát, để độ các chúng sanhBồ tát tu như thế, gọi là trước tu “Xa ma tha”, thứ tu “Thiền na”, sau tu “Tam ma bát đề”.

 

LƯỢC GIẢI

Đoạn này nói Bồ tát trước tu “Chỉ”, thứ “chỉ, quán song tu”, sau tu “Quán” - Bồ tát trước tu “chỉ” được rất tịnh, rồi tiến tu “Thiền na” (Chỉ, quán song tu) để đoạn phiền não. Khi phiền não hết rồi thì Bồ tát vào trần lao độ sanh, đặng diệu hạnh tự tại vô ngại, không còn lo sợ nhiễm trước.

 

8. Trước tu “Định”, sau đồng thời tu “Huệ” và “Định, Huệ song tu”

-Này Thiện nam! Nếu có Bồ tát dùng sức rất tịnh của tâm, đoạn trừ phiền não và dựng lập thế giới, hóa độ chúng sanhBồ tát tu như thế, gọi là trước tu “Xa ma tha” sau đồng thời tu “Tam ma bát đề” và “Thiền na”.

 

LƯỢC GIẢI

Đoạn này nói Bồ tát truớc tu “Chỉ”, sau đồng thời tu “Quán” và “Chỉ, Quán song tu” - Bồ tát dùng sức rất tịnh là tu “Chỉ”, đoạn trừ các phiền não là tu “Thiền Na”, dụng lập thế giớihóa độ chúng sanh là tu “Quán”

 

9. TRước đồng thời tu “Định” và “Huệ” sau “Định, Huệ song tu”

-Này Thiện nam! Nếu có Bồ tát dùng sức rất tịnh, giúp cho việc biến hóa, sau đoạn các phiền nãoBồ tát tu như thế, gọi là trước đồng thời tu “Xa ma tha” và “Tam ma bát đề” sau tu “Thiền na”.

 

LƯỢC GIẢI

Đoạn này nói Bồ tát trước đồng thời tu “Chỉ” và “Quán” sau “Chỉ, Quán song tu”. Bồ tát dùng sức rất tịnh là tu “chỉ” giúp việc biến hóa là tu “Quán”, sau đoạn phiền não là “Chỉ, Quán song tu”.

 

10. Trước đồng thời tu “Định” và “Định, Huệ song tu” sau tu “huệ”

-Này Thiện nam! Nếu có bồ tát dùng sức rất tịnh, giúp cho tịch diệt; sau rồi khởi tác dụng, biến hóa thế giớiBồ tát tu như thế, gọi là trước đồng thời tu “xa ma tha” và “Thiền na”, sau tu “Tam ma bát đề”

 

LƯỢC GIẢI

Đoạn này nói Bồ tát trước đồng thời tu “Chỉ” và “Chỉ, Quán song tu”, sau tu “Quán”. - Bồ tát dùng sức rất tịnh, để đoạn phiền não, mà vẫn giữ tịch diệt, tức là đồng thời tu “Chỉ” và tu “Thiền na”. Sau dùng diệu hạnh của bồ tát ra thế giới hóa độ chúng sanh, tức là tu “Quán”. Từ pháp tu thứ tư, đến pháp tu thứ mười này cộng 7 pháp đều là trước tu “Chỉ”.

 

11. Trước tu “huệ” sau tu “Định”

-Này Thiện nam! Nếu có Bồ tát dùng sức biến hóa tùy thuận theo các chúng sanh để hóa độ, mà vẫn giữ tánh rất tịnh Bồ tát tu như thế, gọi là trước tu “Tam ma bát đề”, sau tu “Xa ma tha”

 

LƯỢC GIẢI

Đoạn này nói Bồ tát trước tu “Quán”. Sau tu “Chỉ”. – Bồ tát dùng sức biến hóa, tùy thuận theo các chúng sanh để hóa độ là tu “Quán”, mà vẫn giữ tánh rất tịnh là tu “chỉ”.

 

12. Trước tu “huệ” sau “Định, Huệ song tu”

-Này Thiện nam! Nếu có bồ tát, dùng sức biến hóa, hoá hiện ra các cảnh giới mà vẫn giữ tịch diệt (vắng lặng). Bồ tát tu như thế gọi là trước tu “Tam ma bát đề” sau tu “thiền na”.

 

LƯỢC GIẢI

Đoạn này nói Bồ tát tu trước “Quán” sau “Chỉ, quán song tu”. - Bồ tát dùng sức biến hóa là tu “Quán”, biến ra các cảnh giới, để hóa độ chúng sanh mà vẫn giữ tịch diệt, thế là “Chỉ, Quán song tu”.

 

13. Trước tu “Huệ” thứ tu “Định” sau “Định, Huệ song tu”

-Này Thiện nam! Nếu có bồ tát dùng sức biến hóa, làm các Phật sự mà vẫn ở yên nơi tịch tịnh, đoạn các phiền não, Bồ tát tu như thế, gọi là trước tu “Tam ma bát đề” thứ tu “Xa ma tha” sau tu “thiền na”.

 

LƯỢC GIẢI

Đoạn này nói Bồ tát trước tu “Quán” thứ tu “chỉ”, sau “chỉ, quán song tu”. - Bồ tát dùng sức biến hóa làm các Phật sự là tu “Quán”, yên ở chỗ vắng lặng là tu “chỉ”, đoạn phiền não là “Chỉ quán song tu”

 

14. Trước tu “huệ” thứ “Định, Huệ đồng thời tu” sau tu “Định”

-Này Thiện nam! Nếu có bồ tát dùng sức biến hóa, làm các việc không ngại, đoạn các phiền não và an trụ nơi rất tịnh. Bồ tát tu như t hế gọi là trước tu “Tam ma bát đề” thứ tu “Thiền na”, sau tu “Xa ma tha “

 

LƯỢC GIẢI

Đoạn này nói Bồ tát trước tu “Quán”, thứ “chỉ, quán song tu”, sau tu “Chỉ”. - Bồ tát dùng sức biến hóa làm các việc vô ngại là tu “Quán”, đoạn các phiền não là “Chỉ, Quán song tu”, an trụ nơi rất tịnh là tu “Chỉ”.

 

15. Trước tu “Huệ” sau đồng thời tu “định” và “định, huệ song tu”

-Này Thiện nam! Nếu có bồ tát dùng sức biến hóa làm các phương tiệntùy thuận hai pháp: rất tịnh (chỉ) và tịch diệt (thiền na). Bồ tát tu như thế, gọi là trước tu “Tam ma bát đề” sau đồng thời tu “Xa ma tha” và “Thiền na”.

 

LƯỢC GIẢI

Đoạn này nói Bồ tát trước tu “Quán”, sau đồng thời tu “chỉ” và “chỉ, quán song tu”. - Bồ tát dùng sức biến hóa làm các phương tiện là tu “Quán”, tùy thuận tánh rất tịnh là tu “chỉ”, và tùy thuận tịch diệt là “Chỉ, quán song tu”.

 

16. Trước đồng thời tu “huệ” và “Định” sau tu “Thiền na” (định, huệ song tu)

-Này thiện nam! Nếu có bồ tát dùng sức biến hóa, khởi ra các công dụng, giúp cho tánh rất tịnh, sau đoạn các phiền nãoBồ tát tu như thế, gọi là trước đồng thời tu “Tam ma bát đề” và “Xa ma tha”, sau tu “Thiền na”.

 

LƯỢC GIẢI

Đoạn này nói Bồ tát trước đồng thời tu “Quán” và “chỉ” sau, sau “chỉ, Quán song tu”. – Bồ tát dùng sức biến hóa, khởi ra các công dụng là tu “Quán”, giúp cho tánh rất tịnh là tu “chỉ”, sau đoạn các phiền não là “chỉ, quán song tu”.

 

17. Trước đồng thời tu “Huệ” và “Định, Huệ song tu”, sau tu “Định”.

-Này Thiện nam! Nếu có bồ tát dùng sức biến hóa, giúp với tịch diệt, sau an trụ nơi tánh định thanh tịnh, không do tạo tác. Bồ tát tu như thế, gọi là trước đồng thời tu “Tam ma bát đề” và “thiền na”, sau tu “xa ma tha”.

 

LƯỢC GIẢI

Đoạn này nói Bồ tát trước đồng thời tu “Quán” và “chỉ, Quán song tu”, sau tu “chỉ”. - Bồ tát dùgn sức biến hóa là tu “Quán”, giúp với tịch diện là “Chỉ, quán song tu”, sau an trụ nơi tánh định thanh tịnh sẵn có, không do tạo tác, là tu “chỉ”.

CÂu “TÁnh Định thanh tịnh không do tạo tác” là chỉ cho “tu tánh chơn định” sẵn có và thanh tịnh, không do tạo tác mà thành, cũng không phải dụng công tu tập mà được, xưa nay nó vẫn thanh tịnh.

 

18. Trước “Định, Huệ song tu” sau tu “định”

-Này thiện nam! Nếu có Bồ tát dùng sức tịch diệt (vắng lặng) khởi hạnh rất ịnh, rồi anh trụ nơi thanh tịnhBồ tát tu như thế, gọi là trước tu “Thiền na”, sau tu “Xa ma tha”.

 

LƯỢC GIẢI

Đoạn này nói Bồ tát trước “Chỉ, quán song tu” sau tu “chỉ”. - Bồ tát dùng sức tịch diệt, khởi tánh rất ịnh là “chỉ quán song tu”m rồi anh trụ nơi thanh tịnh là tu “chỉ”.

 

19. Trước “Định, Huệ song tu” sau tu “huệ”.

-Này Thiện nam! Nếu có bồ tát dùng sức tịch diệt, khởi ra tác dụng, tuy đối các cảnh, mà vẫn tùy thuận nơi tịch tịnhBồ tát tu như thế, gọi là trước tu “Thiền na”, sau tu “Tam ma bát đề”.

 

LƯỢC GIẢI

Đoạn này nói Bồ tát trước “Chỉ quán song tu”, sau tu “Quán”. - Bồ tát dùng sức tịch diệt khởi ra tác dụng độ sanh là “Chỉ, quán song tu”. Mặc dù bồ tát làm các hạnh lợi sanh mà vẫn tùy thuận nơi tịch tịnh là tu “Quán”.

 

20. Trước “Định, Huệ song tu” thư tu “Định” sau tu “huệ”

-Này Thiện nam! Nếu có bồ tát dùng sức tịch diệt, quán tự tánh các chúng sanh, an trụ nơi Định, mà vẫn biến hóa các pháp để độ sanhBồ tát tu như thế, gọi là trước tu “Thiền na”, thứ tu “Xa ma tha” sau tu “tam ma bát đề”

 

LƯỢC GIẢI

Đoạn này nói Bồ tát trước “Chỉ, quán song tu”, thứ tu “chỉ”, sau tu “Quán” - Bồ tát dùng sức tịch diệt, quán tự tánh các chúng sanh để hóa độ, là “chỉ, quán song tu”; an trụ nơi Định là tu “chỉ”, biến hóa các pháp để độ sanh là tu “Quán”.

 

21. Trước “Định, Huệ song tu” thứ tu “Huệ”, sau tu “Định”

-Này thiện nam! Nếu có Bồ tát dùng sức tịch diệt của tự tánh vô tác, để khởi ra tác dụng độ sanh, rồi y nơi cảnh giới thanh tịnhtrở về nơi Định. Bồ tát tu như thế, thì gọi là trước tu “Thiền na”, thứ tu “Tam ma bát đề”, sau tu “Xa ma tha”.

 

LƯỢC GIẢI

Đoạn này nói Bồ tát trước “Chỉ, Quán song tu” thứ tu “Quán” sau tu “chỉ”. - Bồ tát dùng sức tịch diệt của tự tánh vô tác, để khởi ra tác dụng độ sanh, là “chỉ, quán song tu”. Bồ tát y nơi cảnh giới thanh tịnh là tu “Quán”, sau trở về nơi Định là tu “chỉ”.

Chữ “Tự tánh vô tác”, nghĩa là: tự tánh sẵn có không do tạo tác mà thành.

 

22. Trước tu “thiền na” (Định, huệ song tu) sau đồng thời tu “Định và huệ”

-Này Thiện nam! Nếu có bồ tát dùng sức tịch diệt, mỗì mỗi thanh tịnh, an trụ ở nơi Định, mà khởi ra các món biến hóaBồ tát tu như thế, gọi là trước tu “Thiền na”, đồn gt hời tu “Xa ma tha” và “Tam ma bát đề”.

 

LƯỢC GIẢI

Đoạn này nói Bồ tát trước “Chỉ, Quán song tu” sau đồng thời tu “Chỉ” và “quán”. - Bồ tát dùng sức tịch diệt, mỗi mỗi thanht ịnh là “chỉ, Quán song tu” an trụ ở nơi định là tu “chỉ” khởi ra các món biến hóa là tu “Quán”.

 

23. Trước đồng thời tu “thiền na” và tu “Định” sau tu “huệ”

-Này thiện nam! Nếu có bồ tát dùng sức tịch diệt, giúp cho tan1h rất tịnh, sau khởi ra việc biến hóaBồ tát tu như thế, gọi là đồng thời tu “Thiền na” và “Xa ma tha” sau tu “Tam ma bát đề”

 

LƯỢC GIẢI

Đoạn này nói Bồ tát trước đồng thời “Chỉ, Quán song tu” và tu “Chỉ” sau tu “Quán”. - Bồ tát dùng sức tịch diệt là “Chỉ, quán song tu”, giúp cho tánh tất tịnh là tu “Chỉ”, khởi ra các việc biến hóa là tu “Quán”

 

24. Trước đồng thời tu “thiền na” và “huệ”, sau tu “Định”

-Này Thiện nam! Nếu có bồ tát dùng sức tịch diệt giúp việc biến hóa, sau khởi tánh rất tịnh, ở cảnh giới trí huệ trong sángBồ tát như thế, gọi là đồng thời tu “Thiền na” và “Tam ma bát đề” sau tu “Xa ma tha”

 

LƯỢC GIẢI

Đoạn này nói Bồ tát trước đồng thời “chỉ, quán song tu” và tu “Quán”, sau tu “chỉ”. – Bồ tát dùng sức tịch diệt là “chỉ, quán song tu”, giúp việc biến hóa là tu “Quán”, sau khởi tánh rất tịnh v.v.. là tu “chỉ”.

 

25. Bồ tát viên tu ba pháp

-Này thiện nam! Nếu có bồ tát dùng huệ Viên giác, viên hiệp các háp, naò tánh, tướng của các pháp đều không rời tánh Viên giác, bồ tát như t hế, gọi là viên tu ba pháp, tùy thuận tánh viên giác thanh tịnh.

 

LƯỢC GIẢI

Đoạn này nói Bồ tát viên tu ba pháp

Bồ tát cùng Viên giác huệ, viên hiệp tất cả các pháp. Nào Định, Huệ và Định Huệ song tu, nào tánh, tướng của các pháp đều không rời tánh Viên giác.

 

4. Tóm lại

-Này thiện nam! Đây là 25 pháp tu của Bồ tát. VẬy các bồ tát phải y theo đây mà tu hành

Nếu các bồ tát hiện tạichúng sanh đời sau, muốn y theo 25 pháp môn này mà tu hành , thì phải giữ giới thanh tịnh, tâm suy nghĩ vắng lặng và phải trải qua 21 ngày thành tâm sám hối, rồi viết 25 pháp môn này vào mỗi miếng giấy, niêm lại kỹ, đem để trên bàn Phật và chí tâm cầu khẩn, rồi tùy tay hành giả rút một miếng giấy, khi mở ra xem thì hành giả sẽ biết trình độ của mình tu pháp Đốn hay Tiệm. Song nếu hành giả một niệm nghi ngờ, thì chẳng thành tựu.

 

LƯỢC GIẢI

Đoạn này Phật kết thúc lại và dạy rằng: Đây là 25 pháp tu của Bồ tát. Nếu có người muốn tu theo 25 pháp này, thì điều cần yếu là phải giữ giới cho thân tâm được thanh tịnhchí thành cầu sám hối 21 ngày. Rồi hành giả viết tên 25 pháp tu này vào 25 miếng giáy, xếp gói riêng từ miếng, để chung lại trên bàn. Hành giả phải chí thành cầu nguyện, rồi tùy ý rút ra một thăm, sau khi giở ra xem, hành giả sẽ tự biết căn cơ của mình Đốn hay Tiệm và p hải y theo đó mà tu hành. Nếu hành giả có một niệm nghi ngờ thì chẳng thành tựu.

Tóm lại, 25 pháp tu này không ngoài định, Huệ và Định Huệ song tu; chẳng qua tùy theo trình độ của hành giả có sâu cạn, cao thấp không đồng, nên co 1khi phải tu Định trớc rồi Quán sau; có khi phải tu Quán trước rồi Định sau; lắm lúc phải tu đồng thời v.v.. Vì tùy theo trình độ của hành giả, mà thay đổi trước sau, xaoy qua trở lại nên thành ra 25 pháp. Vậy hành giả nên tùy theo trình độ của mình mà tu tập

 

5. Phật nói bài kệ tóm lại các nghĩa trên

Khi đó Đức Thế Tôn muốn tóm lại nghĩa này, nên nói bài kệ rằng:

 Biện Âm! ông nên biết:

 Các trí huệ thanh tịnh

Của tất cả Bồ tát

Đều do Thiền định sanh

Thiền định là “Chỉ, Quán”

Và “Chỉ, Quán song tu”

BA pháp, phân Đốn, Tiệm

Thành ra hai mươi lăm

Mười phương các Như Lai

hành giả ba đời

Đều y pháp môn này

Mà đặng thành Bồ đề

Chỉ trừ người đốn ngộ

Và nhữn gngười không tin

Mới chẳng theo pháp này

Còn tất cả bồ tát

chúng sanh đời sau

Phải như th ế tu hành

Nhờ Đại bi của Phật

CÁc ông siêng tu

Sẽ mau chứng niết bàn.

 

LƯỢC GIẢI

Đại ý bài kệ này nói: Trí huệ thanh tịnh vô ngại của các bồ tát đều do Thiền định sanh. Thiền định là Chỉ, Quán và Chỉ Quán song tu. Bởi theo căn cơ của hành giả có đốn và Tiệm không đồng, nên ba pháp này lại chia ra đến 25 pháp.

Chỉ trừ những bực đốn ngộ và những người không tin, còn chư Phật và các vị Bồ tát cùng chúng sanh đời sau đều tu theo các pháp môn này mà được thành Bồ Đề.

Vậy hành giả nên y theo đây, siêng năng tu tập và nhờ lòng Đại bi của Phật gia hộ, sẽ mau chứng Niết Bàn

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2335)
“Tướng” là cái gì? “Tướng” chính là tướng trạng của sự vật biểu hiện nơi ngoài và tưởng tượng ở nơi trong tâm chúng ta.
(Xem: 33725)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6704)
Duy Thức Học được gọi là môn triết họcmôn học này nhằm khai triển tận cùng nguyên lý của vạn hữu vũ trụ nhân sanh mà vạn hữu vũ trụ nhân sanh...
(Xem: 6706)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 3935)
Tạo sao gọi là Phổ Môn? vì tự tính của mình phổ biến khắp hư không pháp giới, nên gọi Phổ Môn.
(Xem: 5201)
“Quán” là xem xét, “Thế Âm” là âm thanh của thế gian. Quán Thế Âmxem xét âm thanh thế gian, tiêu biểu cho lòng từ bi của Bồ-tát.
(Xem: 11565)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30573)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 8135)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12402)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 3360)
Một bài pháp được ban cho chư Tăng Ni ở International Mahayana Institute tại Boudhanath, Nepal, ngày 2 tháng 2, năm 1975. Nicholas Ribush hiệu đính.
(Xem: 35095)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 52461)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 13224)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 22094)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9771)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 3169)
"Niệm Phật" nghĩa là xưng danh hiệu - hay nhớ tưởng đến hình tướng, bản nguyện hay công đức của một đức Phật - như Phật Thích-ca hay Phật A-di-đà.
(Xem: 10539)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12968)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12953)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16398)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 14028)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14463)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9353)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11892)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11410)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 11670)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 12840)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 20873)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 17835)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32019)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12155)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11986)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 4404)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, Luận Tập Bộ Toàn; Kinh văn số 1678. Pháp Hiền dịch ra chữ Hán. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12888)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10472)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 16566)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 11916)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14943)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 12172)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 17027)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 12849)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 52525)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 12796)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 10055)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 14643)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20355)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13928)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15543)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17645)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 16960)
Nhập Trung Quán Luận (PDF) - Tổ Sư Nguyệt Xứng - Chuyển dịch: Thích Hạnh Tấn, TN Nhật Hạnh
(Xem: 13593)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 12614)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12168)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13397)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12667)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 25806)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 14686)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 28492)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 10399)
"Tánh Không" (còn gọi là tính-không) là một từ ngữ liên hệ đến sự giảng dạy chính yếu của mọi ngành Phật giáo, nhưng ý nghĩa thật sự của từ ngữ nầy thường bị hiểu lầm.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant